Tránh quy định trùng lắp, bỏ sót hoặc không bao quát các hành vi bạo lực gia đình
Trình bày Báo cáo tóm tắt một số vấn đề lớn còn ý kiến khác nhau về dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh cho biết, Dự thảo Luật sau khi chỉnh lý còn 56 điều, ít hơn 6 điều so với dự thảo trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ ba, bỏ 3 điều (các Điều 2, 47 và 61 của dự thảo Luật Chính phủ trình Quốc hội), bổ sung 3 điều (các Điều 33, 39 và 55).
Với sự chỉ đạo chặt chẽ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đến nay, dự thảo Luật đã cơ bản đáp ứng được mục tiêu đặt ra, bảo đảm thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng để "phát triển gia đình hạnh phúc, bền vững và thực hiện phòng, chống bạo lực gia đình toàn diện, khả thi, có hiệu quả", tiếp tục hoàn thiện thể chế về công tác phòng, chống bạo lực gia đình theo hướng tăng cường các biện pháp bảo vệ các quyền con người theo Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, dự thảo Luật góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế nhà nước, xã hội cũng như vai trò của gia đình trong phòng, chống bạo lực gia đình, góp phần gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình, dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới.
Về đối tượng áp dụng được quy định tại Điều 2 của dự thảo Luật, một số ý kiến đại biểu Quốc hội nhất trí với quy định về đối tượng áp dụng tại Điều 2 dự thảo Luật nhưng đề nghị đánh giá tính khả thi và bổ sung các quy định để bảo đảm áp dụng được đối với nhóm đối tượng người nước ngoài cư trú ở Việt Nam. Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng, quy định về đối tượng áp dụng là không cần thiết.
Về vấn đề này, Thường trực Ủy ban Xã hội nhận thấy, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trong thời gian gần đây không có điều riêng về đối tượng áp dụng mà luật áp dụng chung cho tất cả "mọi người", trừ trường hợp đối tượng áp dụng có tính đặc thù. Do vậy, trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội, Thường trực Ủy ban Xã hội đề nghị Quốc hội cho phép chỉnh lý theo hướng bỏ Điều 2 của dự thảo Luật đã trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 3, đồng thời bổ sung quy định giao Chính phủ quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình đối với người nước ngoài cư trú ở Việt Nam tại khoản 3 Điều 22 dự thảo Luật.
Liên quan đến các hành vi bạo lực gia đình được quy định tại Điều 3, một số ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị khoản 1 quy định khái quát thành các nhóm hành vi bạo lực gia đình. Bên cạnh đó, có ý kiến góp ý về nội dung của một số điểm quy định về hành vi bạo lực gia đình. Thường trực Ủy ban Xã hội cho rằng, hầu hết các hành vi bạo lực gia đình đều được thể hiện dưới dạng cụ thể của bạo lực thể xác, bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục hoặc bạo lực kinh tế. Tuy nhiên, có hành vi bạo lực tác động đến người bị bạo lực gia đình dưới dạng đan xen nhiều hình thức khác nhau, do vậy, nếu quy định khái quát thành 4 nhóm hành vi bạo lực gia đình có thể trùng lắp, bỏ sót hoặc không bao quát hết các hành vi bạo lực gia đình. Do vậy, dự thảo Luật tiếp tục quy định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình và được rà soát, chỉnh lý các điểm quy định về hành vi bạo lực gia đình tại khoản 1 Điều này trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội.
Cần chú trọng hơn tới đối tượng là trẻ em
Cơ bản nhất trí với những nội dung trong dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi) và đánh giá cao những tiếp thu, chỉnh lý của Ban soạn thảo, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương) đã trao đổi, làm rõ thêm một số vấn đề. Theo đại biểu, nội dung của dự thảo Luật dường như chưa chú trọng đến đối tượng trẻ em - đối tượng dễ bị bạo lực gia đình. Trên thực tế, hàng năm, số lượng trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình rất lớn. Đại biểu dẫn chứng: Theo thống kê của Tổng đài 111 trong năm 2021, số trẻ em bị bạo lực bởi người thân trong gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất (72,84%). Đại biểu Nga cho rằng, đây mới chỉ là thống kê của một tổng đài, do đó con số thực tế có thể lớn hơn rất nhiều. Tuy nhiên, những nội dung được quy định tại dự thảo Luật hầu như chỉ hướng tới người lớn, nhiều quy định không phù hợp với đối tượng trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình.
Cụ thể, Điều 9 của dự thảo Luật quy định về quyền và trách nhiệm của người bị bạo lực gia đình, hầu như không phù hợp nếu người bị bạo lực gia đình là trẻ em. Theo đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, các em không thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của mình; không thể yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của dự thảo Luật này; và cũng không thể yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình bồi thường thiệt hại. Thậm chí, quyền khiếu nại, tố cáo đối với hành vi bạo lực gia đình cũng không có ý nghĩa đối với nạn nhân là trẻ em, nhất là trẻ em còn rất nhỏ tuổi.
"Ngay cả trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin liên quan tới vụ việc bạo lực gia đình khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cũng không phù hợp đối với đối tượng trẻ em. Với sự non nớt, nỗi sợ hãi khi bị bạo lực gia đình, các em không thể cung cấp đầy đủ, chính xác nội dung vụ việc. Khi trẻ em bị bạo lực gia đình bởi người thân, cũng không hy vọng người đại diện, người giám hộ của người bị bạo lực gia đình là các em cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác", đại biểu nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, đại biểu cho rằng, phương pháp hòa giải trong phòng ngừa bạo lực gia đình quy định tại Điều 17, Điều 18 của dự thảo Luật không phù hợp khi áp dụng với trường hợp nạn nhân bạo lực gia đình là trẻ em. Điều 25 của dự thảo Luật quy định về việc cấm tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã khi có đề nghị của người bị bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật của người bị bạo lực gia đình hoặc theo đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và được sự đồng ý của người bị bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật. Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga đánh giá, quy định này cũng không phù hợp khi người bị bạo lực gia đình là trẻ em và người gây bạo lực gia đình chính là người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật của trẻ em.
"Mục 5 Điều này quy định khi áp dụng quy định cấm tiếp xúc, người bị bạo lực gia đình được quyền lựa chọn chỗ ở trong thời gian cấm tiếp xúc. Quy định này không phù hợp với đối tượng bị bạo lực gia đình là trẻ em. Các em không thể lựa chọn chỗ ở được cho mình", đại biểu làm rõ thêm.
Từ những phân tích trên, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo rà soát kỹ lưỡng và có những quy định riêng phù hợp hơn với nạn nhân bạo lực gia đình là trẻ em, thống nhất với nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình tại mục 2 Điều 4 của dự thảo Luật là ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị bạo lực gia đình là trẻ em, bởi lẽ trẻ em là đối tượng đặc biệt yếu thế khi là nạn nhân bạo lực gia đình, không thể kháng cự, kêu cứu, phản ứng hay yêu cầu, đề nghị được. Thậm chí, nhiều quy định chưa phù hợp với đối tượng bị bạo lực là người già yếu, người khuyết tật, người khuyết tật nặng vì các quy định còn nặng tính hành chính.
Đóng góp ý kiến nhằm hoàn thiện hơn dự thảo Luật, đại biểu Phạm Đình Thanh (Kon Tum) nêu rõ: Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 của dự thảo, hành vi bạo lực gia đình quy định tại khoản 1 Điều này được áp dụng với một số đối tượng, trong đó có cả người đã ly hôn. Đại biểu đánh giá quy định này chưa thống nhất với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, bởi khi đã ly hôn, quan hệ vợ chồng chấm dứt, không còn là thành viên gia đình.
Phần giải thích từ ngữ tại khoản 1 Điều 2 của dự thảo Luật đã ghi: "Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, tình dục, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình". Theo đại biểu Phạm Đình Thanh, nếu người đã ly hôn có hành vi bạo lực quy định tại khoản 1 Điều này của dự thảo Luật thì vi phạm quy định pháp luật về hành chính hoặc hình sự và phải tùy theo tính chất, mức độ để xem xét, xử lý. Do đó, đại biểu nhận thấy không nên quy định những hành vi bạo lực tại khoản 1 Điều 3 được áp dụng với người đã ly hôn.