Đặc biệt, tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục thể thao đến năm 2020, nhiệm vụ về phát triển các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp về thể dục thể thao được xác định khá cụ thể: "Phát huy vai trò của Ủy ban Olympic quốc gia, các Liên đoàn, Hiệp hội Thể thao trong việc điều hành các hoạt động thể thao. Nghiên cứu việc hình thành hệ thống tổ chức xã hội mang tính liên hiệp về thể dục, thể thao từ cơ sở đến toàn quốc, để tập hợp và điều phối chung đối với các tổ chức xã hội về thể dục thể thao, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, có sự quản lý và hỗ trợ về tài chính của Nhà nước. Khuyến khích các tổ chức xã hội, các cơ sở thể thao ngoài công lập tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao".
Ngày 31/01/2024, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 70-KL/TW về việc phát triển thể dục, thể thao trong giai đoạn mới; trong đó có nhiệm vụ quan trọng mà các cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội… phải tập trung thực hiện, đó là: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp thể dục thể thao trong giai đoạn mới...; Chú trọng cơ chế, chính sách đầu tư, phát triển thiết chế, cơ sở hạ tầng…; Khung khổ pháp lý về kinh tế thể thao, quyền sở hữu, chuyển nhượng, khai thác bản quyền và tài trợ, thúc đẩy xã hội hóa… Ngày 15/10/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1189/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, tiếp tục xác định nhiệm vụ và giải pháp là cần: “Kiện toàn, phát huy vai trò, năng lực của Ủy ban Olympic Việt Nam, Ủy ban Paralympic Việt Nam và các Hội Thể thao Quốc gia, cấp tỉnh; Tiếp tục phát triển số lượng các tổ chức hội về thể dục, thể thao. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan chuyên môn với các tổ chức Hội về thể dục, thể thao”. Qua đây khẳng định, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm và có những định hướng, chủ trương, chính sách để nâng cao vai trò hoạt động của các Hội Thể thao Quốc gia, thúc đẩy xã hội hóa trong lĩnh vực thể dục thể thao.
Xu thế quốc tế cho thấy, trình độ nền thể thao càng phát triển thì vai trò của các Hội Thể thao Quốc gia tham gia quản lý, điều hành và tổ chức các hoạt động thể dục thể thao càng rõ nét. Mặc dù, còn gặp rất nhiều khó khăn, song các Hội Thể thao Quốc gia đã có nhiều cố gắng trong hoạt động, có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp thể dục thể thao của đất nước. Các Hội Thể thao Quốc gia cơ bản đều thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, triển khai các nhiệm vụ của Hội theo quy định của Luật Thể dục, thể thao và Nghị định Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Hội; qua đó, phát huy hiệu quả hoạt động, góp phần tích cực phát triển sự nghiệp thể dục thể thao thể hiện qua một số mặt công tác như: (1) phát triển phong trào của môn thể thao; (2) phát huy vai trò chủ động trong công tác xây dựng kế hoạch và phối hợp tổ chức tuyển chọn, đào tạo vận động viên, cử lực lượng vận động viên tham dự thi đấu tại các giải thể thao quốc tế; (3) đề xuất triệu tập tập huấn vận động viên các đội tuyển, đội tuyển trẻ thể thao; (4) quan tâm triển khai công tác đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn, trọng tài, hướng dẫn viên thể thao cơ sở; (5) tổ chức một số lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên môn có chất lượng, kịp thời cập nhật kiến thức, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên môn của các tỉnh, thành, ngành; (6) chú trọng quản lý vận động viên, phong cấp, công nhận thành tích đối với vận động viên đạt đẳng cấp và thành tích trong thi đấu.
Các Hội Thể thao Quốc gia ở nước ta gồm: 2 tổ chức xã hội và 41 tổ chức xã hội - nghề nghiệp về thể thao, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức, tài chính, tài sản, nhân sự; Tuân thủ các quy định của pháp luật và quy định của Điều lệ Hội được Bộ Nội vụ phê duyệt; Chịu sự quản lý Nhà nước về Hội của Bộ Nội vụ, chịu sự quản lý Nhà nước về thể dục thể thao của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các Bộ, Ngành khác có liên quan đến hoạt động của Hội. Căn cứ đặc điểm, thực trạng tổ chức và hoạt động của các Hội Thể thao Quốc gia hiện nay, có thể đánh giá, phân nhóm các Hội như sau:
Nhóm 1: Các tổ chức xã hội gồm Ủy ban Olympic Việt Nam, Ủy ban Paralympic Việt Nam
Ủy ban Olympic Việt Nam: Là tổ chức đại diện cho Thể thao Việt Nam trong phong trào Olympic quốc tế; là thành viên của Ủy ban Olympic quốc tế, Hội đồng Olympic châu Á, Liên đoàn Thể thao Đông Nam Á, Hiệp hội Ủy ban Olympic các quốc gia và Liên đoàn Thể thao các nước nói tiếng Pháp. Các tổ chức thành viên của Ủy ban Olympic Việt Nam gồm: các Liên đoàn, Hiệp hội Thể thao Quốc gia và các tổ chức thể thao khác.
Ủy ban Paralympic Việt Nam: Là tổ chức đại diện cho Thể thao người khuyết tật Việt Nam trong phong trào thể thao người khuyết tật quốc tế (kể cả người khuyết tật đặc biệt - người bị thiểu năng trí tuệ); là thành viên của Ủy ban Paralympic quốc tế, Ủy ban Paralympic châu Á và Ủy ban Thể thao người thiểu năng trí tuệ thế giới. Do đặc thù, Việt Nam chưa thành lập độc lập các Hội Thể thao tương ứng của các môn thể thao cho người khuyết tật nên Ủy ban Paralympic Việt Nam đồng thời có tổ chức các hoạt động tác nghiệp chuyên môn như lớp tập huấn chuyên môn, tổ chức các giải thi đấu, thực hiện công tác tuyển chọn vận động viên khuyết tật,...
Nhóm 2: Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp gồm các Hội Thể thao Quốc gia quản lý các môn thể thao trọng điểm, có tham gia các Đại hội Thể thao Quốc tế, trong đó gồm:
Các Hội hoạt động theo hướng chuyên nghiệp, phát huy được vai trò trong quản lý, tổ chức các hoạt động của môn thể thao (thuận lợi trong quá trình huy động các nguồn lực xã hội, gồm 5 Hội):
Liên đoàn Bóng đá Việt Nam: Liên đoàn Bóng đá Việt Nam có hệ thống tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động hoàn chỉnh, thường xuyên được cập nhật, sửa đổi, bổ sung (theo quy định của Liên đoàn Bóng đá Thế giới). Liên đoàn hiện có 74 tổ chức thành viên là các câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp, hạng Nhất, hạng Nhì, Bóng đá nữ, Bóng đá futsal, Bóng đá bãi biển, Liên đoàn Bóng đá các địa phương, Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp (VPF) và Công ty cổ phần Bóng đá Việt (Vietfootball). Việc xem xét kết nạp các tổ chức thành viên mới, đình chỉ tư cách thành viên đều được đưa ra Đại hội Liên đoàn xem xét quyết định.

Liên đoàn Bóng đá Việt Nam đang quản lý, điều hành toàn bộ các hoạt động bóng đá phong trào, thành tích cao và chuyên nghiệp; là thành viên tích cực của Liên đoàn Bóng đá Thế giới (FIFA), Liên đoàn Bóng đá châu Á (AFC), Liên đoàn Bóng đá Đông Nam Á (AFF) và có uy tín cao với các tổ chức Bóng đá quốc tế. Liên đoàn có trụ sở làm việc, cơ sở vật chất, sân bãi hiện đại, có nguồn thu ổn định, đáp ứng yêu cầu tổ chức thi đấu, hỗ trợ các đội tuyển tập huấn, thi đấu và đảm bảo hoạt động của Liên đoàn. Trong hoạt động, Liên đoàn đảm bảo nguyên tắc tập trung, dân chủ, bảo đảm công khai, minh bạch theo quy định.
Các Liên đoàn Bóng chuyền, Quần vợt, Bóng rổ, Golf đang chủ động từng bước chuyển sang cơ chế chuyên nghiệp. Các môn Bóng rổ, Golf đã thành lập và tổ chức các giải chuyên nghiệp; Liên đoàn Bóng chuyền, Quần vợt đã có nhiều câu lạc bộ của doanh nghiệp, đã thực hiện chuyển nhượng vận động viên và đã đạt được một số kết quả bước đầu. Các Liên đoàn này có bộ máy văn phòng hoạt động chuyên trách, tương đối chuyên nghiệp; kế toán độc lập; vai trò quản lý của Liên đoàn rõ nét, hiệu quả.

Các Hội đảm bảo duy trì hoạt động về chuyên môn, tương ứng với các môn chủ lực của Thể thao Việt Nam tham gia các Đại hội Thể thao Quốc tế (gồm 23 Hội):
Các Liên đoàn Điền kinh, Thể thao dưới nước, Cầu lông, Taekwondo, Bắn súng, Xe đạp - Mô tô thể thao, Đua thuyền, Quyền Anh, Cử tạ - Thể hình, Cờ Vua, Bóng bàn, Judo, Vật, Thể dục, Cầu mây, Bóng ném, Vovinam, Võ thuật cổ truyền, Cờ Tướng, Jujitsu, Billiards & Snooker, Bowling, Đá cầu: Liên đoàn của các môn thể thao này trên thực tế hoạt động có hiệu quả, thực hiện tương đối tốt công tác quản lý, điều hành các hoạt động chuyên môn, tích cực tìm kiếm các nguồn tài chính để hỗ trợ cho hoạt động chuyên môn và hỗ trợ thưởng cho vận động viên xuất sắc; Phối hợp với Cục Thể dục thể thao trong việc tổ chức các giải thi đấu quốc gia, tập huấn, thi đấu đội tuyển quốc gia, đội tuyển trẻ quốc gia, đào tạo, bồi dưỡng huấn luyện viên, trọng tài môn thể thao bằng phần lớn kinh phí Nhà nước; Ngoài ra, có tổ chức được một số giải thể thao trong nước và quốc tế từ nguồn xã hội hóa.
Trong tổng số 23 Hội này, vẫn còn nhiều Hội chưa có bộ máy văn phòng hoạt động chuyên trách (có 10/23 Liên đoàn có từ 2 cán bộ văn phòng trở lên, hoạt động tương đối nề nếp hiệu quả), một số Hội chưa đảm bảo tự chủ về tài chính, Tổng Thư ký đa số là cán bộ của Cục Thể dục thể thao hoặc cán bộ chuyên môn thể thao ở địa phương, hoạt động kiêm nhiệm, vai trò quản lý của một số Liên đoàn như phát triển phong trào, quản lý hội viên, quản lý tư cách huấn luyện viên, vận động viên,... chưa thực sự rõ nét.

Nhóm 3: Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp gồm các Hội Thể thao Quốc gia quản lý các môn thể thao được thành lập theo nhu cầu của xã hội, hoạt động hoàn toàn bằng nguồn xã hội hóa, trong đó gồm:
Các Hội Thể thao Điện tử giải trí Việt Nam, Liên đoàn Yoga Việt Nam, Liên đoàn Trượt băng và Roller Việt Nam, Liên đoàn Võ thuật tổng hợp Việt Nam hoạt động tương đối hiệu quả, tự chủ 100% kinh phí hoạt động, đặc biệt trong tổ chức giải thi đấu, tập huấn trọng tài và hỗ trợ vận động viên tham gia các giải thi đấu quốc tế.
Các Hội: Hiệp hội Câu cá Thể thao Việt Nam, Hiệp hội Thể thao Bridge & Poker Việt Nam, Hiệp hội Ôtô Thể thao Việt Nam, Liên đoàn Bóng chày - Bóng mềm Việt Nam là những Hội hằng năm chủ động tổ chức được một số hoạt động chuyên môn như lớp tập huấn trọng tài, huấn luyện viên, giải thể thao phong trào. Tuy nhiên, cũng còn gặp phải khó khăn trong quản lý chuyên môn, phát triển phong trào; khó khăn về cơ sở vật chất, sân thi đấu; hội viên tham gia chưa nhiều, không ổn định; tổ chức hội và vai trò quản lý của Hội còn hạn chế.
Các Hội mới thành lập: Liên đoàn Lân Sư Rồng Việt Nam tổ chức Đại hội thành lập Liên đoàn vào tháng 4/2023, Liên đoàn Kickboxing Việt Nam tổ chức Đại hội thành lập Liên đoàn vào tháng 1/2024, Liên đoàn Thuyền máy Thể thao Việt Nam tổ chức Đại hội thành lập Liên đoàn vào tháng 1/2024, Liên đoàn Triathlon Việt Nam tổ chức Đại hội thành lập Liên đoàn vào tháng 4/2024.
Nhóm 4: Các tổ chức Hội khác
Hội Khoa học Thể dục thể thao Việt Nam: Tập hợp các nhà khoa học, các đơn vị đào tạo và các tổ chức, cá nhân làm hoặc yêu thích, ủng hộ công tác khoa học và công nghệ thể dục thể thao, góp phần xây dựng nền khoa học và công nghệ thể dục thể thao phát triển để phục vụ phát triển sự nghiệp thể dục thể thao và kinh tế - xã hội của đất nước. Hiện Hội hoạt động khó khăn, chưa có nhiều hoạt động rõ nét.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hội Thể thao Quốc gia
Để các Hội Thể thao Quốc gia thực hiện đầy đủ chức năng, quyền hạn theo quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trên các khía cạnh khác nhau gồm:
1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước về thể dục thể thao
a) Định hướng và hỗ trợ:
Ban hành chính sách, pháp luật: Nhà nước ban hành các chính sách, pháp luật về thể thao, tạo khung pháp lý cho hoạt động của Hội Thể thao Quốc gia, đảm bảo sự phát triển lành mạnh, bền vững của thể thao quốc gia. Đặc biệt cần sớm ban hành các văn bản quản lý chuyên môn, như: Quy định về quản lý đối với các giải thể thao có yếu tố kinh doanh; Quy định về trình tự, thủ tục thành lập đội tuyển thể thao quốc gia, Quy trình và tiêu chuẩn tuyển chọn vận động viên tham gia đội tuyển thể thao quốc gia, đoàn thể thao quốc gia; Quy định về tiêu chuẩn phong đẳng cấp đối với trọng tài, huấn luyện viên; Nội dung bồi dưỡng chuyên môn đối với người tham gia hướng dẫn chuyên môn của môn thể thao; Tiếp tục xây dựng quy định tiêu chuẩn, định mức, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực thể dục thể thao; Các quy định cụ thể để quản lý, phát triển các môn thể thao chuyên nghiệp,...
Định hướng phát triển: Xác định các môn thể thao trọng điểm, có tiềm năng phát triển cao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời hỗ trợ, đồng hành cùng Hội Thể thao Quốc gia xây dựng chiến lược phát triển, quản lý môn thể thao phù hợp.
Hỗ trợ nguồn lực: chủ trì và phối hợp chặt chẽ với các Hội Thể thao Quốc gia để huy động các nguồn lực hỗ trợ cho các hoạt động tập luyện, thi đấu của vận động viên quốc gia.
b) Giám sát và đánh giá:
Giám sát hoạt động: Nhà nước giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật, Điều lệ của Hội Thể thao Quốc gia, đảm bảo hoạt động minh bạch, hiệu quả.
Đánh giá hiệu quả: Đánh giá định kỳ hoạt động của Hội Thể thao Quốc gia, đặc biệt chú trọng dựa trên các tiêu chí như thành tích thi đấu, số lượng vận động viên tham gia, sự phát triển của phong trào thể thao quần chúng... Thực hiện hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền khen thưởng kịp thời đối với Hội hoạt động hiệu quả, có thành tích nổi bật.
Công khai thông tin: Yêu cầu Hội Thể thao Quốc gia công khai thông tin theo quy định về hoạt động tài chính, sử dụng kinh phí, đảm bảo sự minh bạch và trách nhiệm giải trình.
c) Phối hợp và liên kết:
Phối hợp với các cơ quan chức năng: Phối hợp với các cơ quan liên quan như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế... để triển khai các chương trình phát triển thể thao trong trường học, nâng cao sức khỏe cho người dân.
Hợp tác quốc tế: Hỗ trợ Hội Thể thao Quốc gia tham gia các hoạt động thể thao quốc tế, giao lưu học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn.
d) Tạo môi trường thuận lợi:
Phát triển thể thao quần chúng: Khuyến khích mọi người tham gia tập luyện thể thao, rèn luyện sức khỏe, tạo nền tảng cho sự phát triển của thể thao đỉnh cao.
Xây dựng văn hóa thể thao: Nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của thể thao, cổ vũ tinh thần thể thao đoàn kết, trung thực, cao thượng.
Chống tiêu cực: Kiên quyết xử lý các hành vi gian lận, doping, mua bán độ trong thể thao, đảm bảo môi trường thi đấu lành mạnh.
2. Đối với các Hội Thể thao Quốc gia
a) Hoàn thiện hệ thống tổ chức và quản lý:
Xây dựng bộ máy tổ chức tinh gọn, hiệu quả: Cần rà soát, sắp xếp lại bộ máy tổ chức của Hội, đảm bảo phù hợp với yêu cầu thực tế, tinh gọn, hiệu quả.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành hoạt động thể thao chuyên nghiệp.
Áp dụng công nghệ thông tin: Sử dụng các phần mềm quản lý hiện đại để nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành, thống kê, báo cáo dữ liệu
b) Phát triển nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất:
Tăng cường huy động nguồn vốn: Đa dạng hóa các nguồn vốn cho hoạt động thể thao, huy động từ ngân sách Nhà nước, xã hội hóa nguồn vốn từ các doanh nghiệp, nhà tài trợ.
Quản lý tài chính hiệu quả: Thực hiện quản lý tài chính minh bạch, hiệu quả, tiết kiệm, chống lãng phí.
Phát triển cơ sở vật chất: Đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ tập luyện, thi đấu cho các vận động viên.
c) Nâng cao chất lượng hoạt động chuyên môn:
Xây dựng chiến lược phát triển thể thao: Lập kế hoạch phát triển thể thao khoa học, bài bản, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước.
Phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng thể thao: Áp dụng khoa học kỹ thuật vào công tác đào tạo, bồi dưỡng tài năng thể thao, chú trọng đào tạo từ lứa tuổi nhi đồng, thiếu niên.
Nâng cao chất lượng công tác huấn luyện: Cung cấp cho các huấn luyện viên kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ tiên tiến, áp dụng khoa học kỹ thuật vào công tác huấn luyện.
Chú trọng công tác y tế thể thao: Đảm bảo sức khỏe cho các vận động viên, có chế độ dinh dưỡng hợp lý, phục hồi chức năng sau tập luyện và thi đấu.
d) Phát triển phong trào thể thao quần chúng:
Tổ chức nhiều hoạt động thể thao phong trào: Tổ chức các giải thi đấu thể thao phong trào cho mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp Nhân dân.
Xây dựng cơ sở vật chất phục vụ thể thao quần chúng: Hội chủ động phối hợp với đơn vị liên quan, tổ chức hội viên ở địa phương xây dựng sân chơi, luyện tập thể thao cho người dân ở khu vực đô thị và nông thôn
Nâng cao nhận thức của cộng đồng: Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của luyện tập thể thao.
đ) Tăng cường hợp tác quốc tế:
Hợp tác với các tổ chức thể thao quốc tế: Tham gia các giải thi đấu thể thao quốc tế, khu vực, giao lưu học hỏi kinh nghiệm với các quốc gia tiên tiến.
Hợp tác với các tổ chức phi Chính phủ: Hợp tác với các tổ chức phi Chính phủ trong lĩnh vực thể thao để huy động nguồn lực, chia sẻ kinh nghiệm.
e) Nâng cao hiệu quả công tác thông tin, truyền thông:
Tăng cường tuyên truyền về hoạt động của môn thể thao: Tuyên truyền rộng rãi về hoạt động thể thao, thành tích của các vận động viên, thu hút sự quan tâm của cộng đồng.
Phát triển hệ thống truyền thông thể thao: Phát triển hệ thống truyền thông thể thao đa dạng, phong phú, đưa thông tin về môn thể thao đến với đông đảo người dân.
Xây dựng thương hiệu, hình ảnh của Hội, của các vận động viên, huấn luyện viên nổi tiếng.
Các Hội Thể thao Quốc gia là những tổ chức phi Chính phủ, phi lợi nhuận, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Tuy là tổ chức phi lợi nhuận nhưng trong xu thế chuyên nghiệp hóa các hoạt động thể thao và ngành công nghiệp thể thao đang phát triển mạnh như hiện nay thì các Hội Thể thao Quốc gia cũng phải nâng cao năng lực quản trị, huy động, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, dưới sự chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi của Nhà nước để hoạt động và phát triển bền vững. Sự phối hợp chặt chẽ giữa quản lý Nhà nước và Hội Thể thao Quốc gia, cùng với sự chung tay góp sức của toàn xã hội sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển hiệu quả của các Hội Thể thao Quốc gia, đưa Thể thao Việt Nam ngày càng tiến xa hơn trên trường quốc tế.