Tập trung triển khai hiệu quả Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng cho biết đã tập trung triển khai hiệu quả Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 với 5 quan điểm, 4 mục tiêu chung và 8 mục tiêu cụ thể, đề ra 11 nhóm nhiệm vụ và giải pháp cụ thể cho các mặt của lĩnh vực văn hóa.

van-hoa-1724139789.jpg
Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện trong phát triển văn hóa

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng thừa ủy quyền của Chính phủ gửi báo cáo việc triển khai các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 572/NQ-UBTVQH15 ngày 18/8/2022 về hoạt động chất vấn tại Phiên họp thứ 14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV (lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch).

Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc và Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 (Quyết định số 3177/QĐ-BVHTTDL ngày 29/11/2022); chỉ đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tích cực phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương triển khai các nhiệm vụ, mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030.

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, xây dựng môi trường văn hóa ở cơ sở, xây dựng con người được chú trọng. Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Hoạt động đối ngoại về văn hóa được đẩy mạnh, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, văn hoá, con người Việt Nam với đông đảo bạn bè quốc tế.

Về kết quả đạt được, báo cáo nêu rõ: Đến nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các bộ, ngành, địa phương đã chủ động, tập trung triển khai kịp thời, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tập trung vào một số nhiệm vụ chính. Cụ thể:

Thứ nhất: Tiếp tục tổ chức quán triệt sâu sắc, tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển văn hóa, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương và toàn xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững đất nước.

Thứ hai: Hoàn thiện thể chế, chính sách, khung khổ pháp lý: Hệ thống pháp luật về văn hóa đã từng bước được rà soát, bổ sung, hoàn thiện, tạo khung khổ pháp lý cho sự phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng. Công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa thực hiện chủ động, cơ bản đáp ứng yêu cầu đề ra. Thông qua quá trình rà soát, đánh giá định kỳ để phát hiện những chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển văn hóa chưa được thể chế hóa, những vấn đề bất cập với thực tiễn, từ đó đề xuất các giải pháp để hoàn thiện cơ chế, chính sách theo hướng kiến tạo, khơi thông nguồn lực. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Chính phủ đã giao Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành: 03 Luật, 17 Nghị định, 01 Nghị quyết của Chính phủ, 10 Quyết định và 03 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.

Thứ ba: Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Bộ trưởng cho biết, Văn hóa là lĩnh vực rộng, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp. Để phát huy sức mạnh tổng hợp của các hệ thống chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch một số nhiệm vụ như phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban Dân tộc, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Người cao tuổi Việt Nam rà soát, xây dựng mới và tổ chức ký kết Chương trình phối hợp công tác trong giai đoạn 2022-2026, theo đó, lấy cơ sở là địa bàn trọng tâm để tác nghiệp, bảo tồn, phát huy và nhân lên các giá trị văn hóa; Phối hợp với Hiệp hội Phát triển văn hóa doanh nghiệp Việt Nam triển khai Bộ tiêu chí Văn hóa kinh doanh Việt Nam với 5 nhóm tiêu chí, 40 chỉ số đánh giá đo lường, trong đó có các nhóm tiêu chí hết sức quan trọng như thượng tôn pháp luật và trách nhiệm đối với xã hội.

Các sự kiện văn hóa, thể thao, nghệ thuật cấp quốc gia, cấp vùng tiếp tục được chỉ đạo tổ chức, gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của Nhân dân. Các sự kiện: Ngày hội Văn hóa dân tộc Dao toàn quốc, Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch vùng Tây Bắc, Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch đồng bào Khmer Nam Bộ, Liên hoan Chèo toàn quốc, Liên hoan Cải lương toàn quốc, Hội diễn Tiếng hát công nhân toàn quốc và các chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị được phối hợp tổ chức thành công, góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.

Thứ tư: Xây dựng và phát triển con người toàn diện. Thể lực, tầm vóc con người Việt Nam được cải thiện, đi cùng với các yêu cầu về tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Theo đó, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức thành công Hội thảo khoa học “Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới”. Triển khai xây dựng các đề án, đề tài nghiên cứu những giá trị văn hóa tốt đẹp cần phát huy và những hủ tục cần được loại bỏ nhằm hướng tới xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam như: Đề tài nghiên cứu khoa học “Vai trò của hương ước, quy ước đối với xây dựng đạo đức lối sống hiện nay”; Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình… Triển khai thí điểm Bộ chỉ số gia đình hạnh phúc tại một số địa phương; Xây dựng, nhân rộng mô hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng gắn với giữ gìn, phát huy văn hóa truyền thống đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. 

Tiếp tục hoàn thiện về thể chế, chính sách

Trước yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển, lĩnh vực văn hóa còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập như đã xuất hiện các hiện tượng văn hóa tầm thường, dễ dãi, mang tính thị trường; trách nhiệm nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, văn minh công cộng chưa được xây dựng theo hướng có văn hóa...; Đời sống văn hóa, tinh thần ở một số nơi còn đơn điệu; thiếu tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao; việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa còn gặp nhiều khó khăn. Cơ chế chuyển hóa hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa vốn rất phong phú, giàu có của Việt Nam thành sự đa dạng, giàu bản sắc và có khả năng cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa còn thiếu đồng bộ...; Thể chế về văn hóa đang trong quá trình từng bước hoàn thiện; Một hệ sinh thái thực sự để các ngành công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cũng như tạo ra sự cân bằng, đa dạng và bền vững hơn cho nền kinh tế chưa đủ điều kiện để hình thành...

z5749164419378-521c63ccd5ce7600da2513f8e100d6da-1724140054.jpg
Văn hóa không chỉ là động lực gián tiếp mà văn hóa còn là động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế

Đề cập đến giải pháp trong thời gian tới, Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho biết sẽ tiếp tục chỉ đạo hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách với các nội dung: Hoàn thiện khung khổ pháp lý về huy động hiệu quả nguồn lực, khuyến khích sự tham gia của khu vực ngoài Nhà nước trong phát triển văn hóa; Lồng ghép các cơ chế chính sách về văn hóa trong các ngành, lĩnh vực có liên quan để đảm bảo cách tiếp cận toàn diện. Xây dựng cơ chế chính sách phân cấp, phân quyền, ủy quyền ở từng cấp, cần thực hiện, áp dụng cơ chế đặc thù tại một số địa phương.

Nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách để các địa phương có tiềm năng, thế mạnh và những điều kiện thuận lợi riêng để tăng cường phát triển văn hóa một cách hiệu quả nhất. Đẩy mạnh cải cách hành chính, siết chặt kỷ cương, phân cấp và xác định trách nhiệm cụ thể cho các địa phương, các ban, ngành trong quản lý văn hóa đi đôi với kiểm tra, giám sát việc thực hiện.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đội ngũ quản lý, hoạch định chính sách; cán bộ văn hóa cơ sở, cán bộ làm công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Phát triển nguồn nhân lực thực hành, sáng tạo, quản lý văn hóa, nghệ thuật có các kiến thức, kỹ năng phù hợp.

Xây dựng các chính sách đãi ngộ phù hợp cho nghệ nhân, chuyên gia, nhà sản xuất các sản phẩm và dịch vụ. Tăng cường giáo dục thanh thiếu niên về văn hóa dân tộc; tăng cường tổ chức các khóa học, chương trình nghiên cứu, trao đổi về phương pháp tiếp cận, mô hình và các kinh nghiệm phát triển các ngành công nghiệp văn hóa với các chuyên gia trong nước và nước ngoài.

Tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ. Cụ thể là phát triển khoa học công nghệ, đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ số và thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa. Tăng cường nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào phát triển văn hóa.

Xây dựng hệ thống lưu trữ dữ liệu và công bố dữ liệu số về văn hóa giúp các nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp, nhà đầu tư và công chúng dễ dàng tiếp cận tra cứu thông tin. Đầu tư các trang thiết bị phục vụ công tác xây dựng kho dữ liệu dùng chung của ngành Văn hóa, chuẩn hóa, số hóa dữ liệu và Cổng dữ liệu mở để đảm bảo các dữ liệu lưu trữ sẽ được khai thác chung cho các hệ thống ứng dụng liên quan theo mô hình Chính phủ điện tử. Tích cực ứng dụng khoa học công nghệ, số hóa để tuyên truyền, quảng bá hình ảnh văn hóa, con người Việt Nam ra nước ngoài.

Cung cấp các sản phẩm, dịch vụ văn hóa trên không gian số, thúc đẩy thị trường văn hóa trên môi trường số. Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và đổi mới kịp thời trong việc áp dụng nền tảng công nghệ 4.0 vào các hoạt động nhằm đưa các sản phẩm, văn hóa Việt Nam tham gia mạnh mẽ vào chuỗi giá trị sản phẩm, dịch vụ văn hóa toàn cầu.

Phát triển thị trường các ngành công nghiệp văn hóa. Chuyển hóa tài nguyên văn hóa thành các sản phẩm và dịch vụ văn hóa có khả năng cạnh tranh mạnh trên thị trường văn hóa.

Mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế: Chủ động mở rộng, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Nghiên cứu, xây dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài. Phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn nghệ sĩ người Việt Nam ở nước ngoài. Quảng bá văn hóa, các loại hình nghệ thuật đặc sắc của quốc gia và xuất khẩu các sản phẩm văn hóa của Việt Nam ra nước ngoài. Chủ động tham gia, thể hiện vai trò tích cực tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế về văn hóa. Tăng cường sự hiện diện của Việt Nam tại các sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch quốc tế.

T.H