Lần đầu tiên áp dụng nhiều biện pháp chống dịch chưa có tiền lệ

Theo chương trình Kỳ họp thứ hai - Quốc hội khóa XV, sáng nay (ngày 10/11), Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long là người đầu tiên trả lời chất vấn. Bộ Y tế đã có báo cáo gửi đến Quốc hội một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn.

Công tác cách ly, truy vết được triển khai đồng bộ

Bộ Y tế cho biết, ngay khi dịch bệnh bắt đầu có những diễn biến phức tạp, Bộ Y tế đã chỉ đạo các địa phương chuẩn bị sẵn sàng các kịch bản, tình huống xấu và chủ động nâng cao năng lực phòng, chống dịch đồng thời tổ chức triển khai nhiều biện pháp chống dịch.

Quốc hội tiến hành phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ hai - Quốc hội khóa XV

Theo đó, thành lập các Bộ phận thường trực đặc biệt tại địa phương để trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ phòng, chống dịch. Xây dựng và cập nhật các hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật về truy vết, khoanh vùng, các phương án cách ly, các chiến lược xét nghiệm, đánh giá nguy cơ, phòng, chống dịch tại khu công nghiệp.

Công tác cách ly, truy vết đã được triển khai đồng bộ với nhiều biện pháp được tăng cường nhằm phát hiện sớm, ngăn ngừa dịch bệnh, trong đó sử dụng các biện pháp công nghệ; phát huy vai trò của Tổ COVID-19 cộng đồng, phối hợp giữa các lực lượng tiến hành truy vết nhanh, thực hiện cách ly kịp thời theo phương châm đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng.

Các biện pháp tổ chức cách ly được điều chỉnh, cập nhật theo diễn biến dịch bệnh và năng lực cách ly của từng địa bàn. Điều chỉnh thời gian cách ly tập trung phù hợp với diễn biến dịch. Nhiều biện pháp cách ly lần đầu tiên được triển khai trong phòng, chống dịch tại nước ta như: Cách ly F1 tại trạm y tế xã, tại nhà, cơ sở sản xuất, doanh nghiệp; thực hiện cách ly tại chỗ, cách ly ngay tại các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp; sử dụng camera giám sát cách ly; đặc biệt, tổ chức triển khai thí điểm cách ly F0 tại nhà đối với các trường hợp không triệu chứng (bảo đảm các điều kiện cần thiết trong quá trình thực hiện cách ly) trong giai đoạn dịch tăng cao tại thành phố Hồ Chí Minh...

Lần đầu tiên áp dụng nhiều biện pháp chống dịch chưa có tiền lệ, huy động lực lượng lớn nhân lực từ các đơn vị, địa phương để tập trung cho hoạt động phòng, chống dịch, nhằm giảm tử vong tối đa.

Tổ chức phân tầng điều trị theo mô hình tháp 3 tầng để tiếp nhận điều trị hiệu quả các trường hợp nhiễm COVID-19 theo các mức độ của bệnh. Thực hiện việc hỗ trợ chuyên môn thông qua hình thức hội chẩn trực tuyến, trực tiếp, giao ban giữa các tầng điều trị, chuyển viện an toàn, đặc biệt tầng 3 (nặng, nguy kịch) cho tầng 2 và tầng 1. Triển khai các mô hình chăm sóc, điều trị người nhiễm tại nhà, huy động sự tham gia của cộng đồng ở các địa phương có nhiều người nhiễm; thành lập các trạm y tế lưu động tại các xã, phường, thị trấn với sự tham gia của các lực lượng y tế, quân y, tình nguyện viên.… Bộ Y tế cho rằng, đây là giải pháp mang tính đột phá, đạt hiệu quả cao, giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế từ sớm, ngay tại xã, phường, thị trấn, góp phần giảm bệnh nặng và tử vong.

Tổ chức hiệu quả chiến dịch tiêm chủng có quy mô lớn nhất trong lịch sử tiêm chủng tại Việt Nam

Theo Bộ Y tế, tính đến 4/11/2021, cả nước đã tiêm được 86,4 triệu liều; đã có trên 32,5 triệu người tiêm 1 liều vaccine và trên 26,9 triệu người tiêm đủ 2 liều vaccine. Tỷ lệ tiêm ít nhất 01 liều vắc xin là 81,2% và tỷ lệ tiêm đủ 2 liều vaccine là 37,34% dân số từ 18 tuổi trở lên; vào ngày cao điểm cả nước tiêm được trên 2 triệu liều vaccine/ngày. Có 13 tỉnh, thành phố có tỷ lệ tiêm ít nhất 1 liều vaccine cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt trên 95%; có 11 tỉnh, thành phố có tỷ lệ bao phủ đủ 2 mũi vaccine cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt trên 50%. Riêng các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam đã tiêm được 94,1% mũi 1 và 48,7% mũi 2 cho người từ 18 tuổi trở lên.

Về tình hình nhập khẩu, sản xuất vắc xin, Bộ Y tế cho biết, tính đến ngày 5/11/2021, tổng số vaccine đã có hợp đồng mua, cam kết viện trợ và tài trợ là 198,8 triệu liều, đã tiếp nhận 124,7 triệu liều vắc xin và phân bổ vaccine theo địa bàn trọng điểm là những nơi đang có dịch bùng phát mạnh, nguy cơ bùng phát cao, nhiều khu công nghiệp, giao thông huyết mạch…; thực hiện ưu tiên tiêm cho các đối tượng người già, người có nguy cơ cao, mở rộng chỉ định tiêm cho một số đối tượng như phụ nữ mang thai trên 13 tuần, trẻ em, mở rộng mạng lưới tiêm chủng bao gồm cố định và lưu động. Hiện đã phân bổ hơn 110 triệu liều vắc xin cho các đơn vị, địa phương để tiêm chủng cho toàn bộ người dân từ 18 tuổi trở lên và một số trẻ em từ 12 đến 17 tuổi.

Cùng với đó, công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong phòng, chống dịch được đẩy mạnh. Việt Nam là 1 trong 4 nước đầu tiên trên thế giới phân lập được vi rút; nghiên cứu, sản xuất sinh phẩm chẩn đoán, một số trang thiết bị y tế; đảm bảo được trang thiết bị phòng hộ… Về nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước, đã có 2 vaccine được thử nghiệm lâm sàng; 2 vaccine chuyển giao công nghệ với Mỹ, Nga và 2 vaccine có hợp tác chuyển giao công nghệ với Trung Quốc, Cuba.

Tuy nhiên, do đây là đại dịch mới, chưa có tiền lệ, chưa từng xảy ra trên quy mô toàn cầu; hầu hết các nước chưa có nhiều kinh nghiệm và có các cách ứng xử khác nhau; biến chủng Delta lây nhiễm nhanh, mạnh, khó kiểm soát đối với tất cả các nước và kéo dài nên trong thời gian đầu của đợt dịch, công tác chỉ đạo điều hành ở các cấp có nơi, có lúc còn lúng túng, chưa thống nhất, bị động; còn tình trạng chủ quan, lơ là, mất cảnh giác khi chưa có dịch hoặc dịch đã đi qua; ngược lại, khi có dịch lại hoang mang, lo lắng, mất bình tĩnh; còn thiếu quyết liệt, thiếu kiên định, còn chần chừ; sự phối hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo giữa các địa phương chưa chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả, thiếu nhất quán.

Đợt dịch COVID-19 lần thứ 4 đã cho thấy: Các quy định của pháp luật hiện hành chưa thể bao quát được hết các tình huống ứng phó với bùng phát của dịch bệnh; nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành; một số văn bản chưa sát thực tiễn, thiếu khả thi, một số quy định mâu thuẫn, thay đổi nhanh, gây bức xúc trong xã hội, nhất là việc đi lại của người dân; hệ thống y tế, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng chưa đáp ứng năng lực phòng, chống dịch; hầu hết các trang thiết bị y tế, thuốc, sinh phẩm, vaccine... đều phải nhập khẩu do chưa sản xuất được trong nước; ứng dụng công nghệ thông tin vẫn còn tình trạng thiếu thống nhất, đồng bộ; Công tác truyền thông giai đoạn đầu còn chậm trễ trong việc cung cấp thông tin định hướng dư luận.

Triển khai hiệu quả Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch COVID-19 

Giải pháp trong thời gian tới, Bộ Y tế cho biết sẽ tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng; huy động cả hệ thống chính trị, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Làm tốt hơn nữa công tác dự báo; phát huy trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là ở cơ sở; đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với kiểm tra, giám sát và phát huy tính tự chủ, linh hoạt, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, địa phương và doanh nghiệp.

Triển khai hiệu quả Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch COVID-19 để tạo điều kiện thuận lợi thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Các địa phương chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ và Quyết định số 4800/QĐ-BYT ngày 12/10/2021 ban hành Hướng dẫn tạm thời về chuyên môn y tế "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”.

Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long trả lời chất vất. 

Đẩy nhanh Chiến dịch tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 toàn quốc

Thực hiện tiêm mũi tăng cường và triển khai kế hoạch tiêm vaccine cho trẻ em thận trọng, an toàn, khoa học. Hướng tới tỷ lệ vaccine bao phủ dân số trên 18 tuổi đạt 100% trong quý 4/2021 và đầu năm 2022. Từ Quý 4 năm 2021, Bộ Y tế tiếp tục triển khai tiêm cho trẻ em từ 12-17 tuổi theo lộ trình từ lứa tuổi cao đến thấp (tiêm trước cho lứa tuổi từ 16-17 tuổi và hạ dần độ tuổi) theo tiến độ cung ứng vaccine và tình hình dịch tại địa phương với mục tiêu 100% trẻ trong độ tuổi này được tiêm đủ số mũi cơ bản; mở rộng tiêm cho trẻ em thuộc các nhóm tuổi khác có chỉ định sử dụng vắc xin, đảm bảo toàn bộ người dân bình đẳng, công bằng trong tiếp cận vắc xin phòng COVID-19.

Tập trung đầu tư, từng bước hiện đại hóa, nâng cao năng lực hệ thống y tế, nhất là y tế dự phòng, y tế cơ sở. Bảo đảm an ninh y tế, chú trọng thúc đẩy nghiên cứu y sinh học, phát triển công nghiệp dược, vaccine, sinh phẩm, thuốc điều trị, trang thiết bị y tế để chủ động trong phòng, chống dịch, kể cả đối với các loại dịch bệnh nguy hiểm, mới nổi.

Tiếp tục nhập khẩu vaccine và thúc đẩy sản xuất vắc xin trong nước để từng bước chủ động nguồn cung, đáp ứng nhu cầu năm 2022 và các năm tiếp theo; khuyến khích huy động nguồn lực địa phương, doanh nghiệp để mua vaccine.

Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách huy động nguồn lực cho phòng, chống dịch, thúc đẩy xã hội hóa, kết hợp công tư; tiếp tục đổi mới công tác đào tạo nhân lực cho hệ thống y tế đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch; có chính sách đặc thù, đãi ngộ đối với lực lượng y tế, lực lượng tuyến đầu có nhiều đóng góp, hy sinh.

Thực hiện việc kết nối, xác thực và liên thông các cơ sở dữ liệu trên nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư. Đảm bảo an toàn, an ninh đối với các ứng dụng và cơ sở dữ liệu phục vụ phòng, chống dịch.

Tổng kết việc thực hiện các biện pháp, giải pháp phòng, chống dịch COVID-19 đã thực hiện trong các đợt dịch vừa qua để xây dựng kịch bản, chiến lược phòng, chống dịch trong thời gian tới. Đồng thời, bổ sung các giải pháp về hoàn thiện thể chế, pháp luật trong công tác phòng, chống dịch.

Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp cơ bản bảo đảm nguồn cung trang thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm 

Để chủ động nguồn cung trang thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm phục vụ khám chữa bệnh và phòng chống dịch COVID-19, Bộ Y tế đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp cơ bản bảo đảm nguồn cung trang thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm.

Cụ thể, tổng hợp, rà soát đánh giá và khảo sát nhu cầu trong nước; đề nghị các đơn vị sản xuất, nhập khẩu, cung ứng trang thiết bị y tế; chủ động tìm kiếm nguồn hàng, chuẩn bị nguyên liệu phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh đảm bảo cung ứng trang thiết bị, vật tư, sinh phẩm y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19.

Thúc đẩy sản xuất trong nước, đề nghị các doanh nghiệp chủ động, nhanh chóng tìm kiếm các nguồn hàng có chất lượng, có khả năng cung ứng để kịp thời tiếp cận đưa các sản phẩm về thị trường Việt Nam theo hướng tiếp cận với các nhà sản xuất có uy tín từ châu Âu, Mỹ và thực hiện theo hình thức chuyển giao công nghệ, gia công để rút ngắn quá trình sản xuất và tiến tới làm chủ công nghệ sản xuất tại Việt Nam, đặc biệt ưu tiên mặt hàng phòng chống dịch COVID-19: các sản phẩm test xét nghiệm SARS-CoV-2, máy thở, máy oxy dòng cao...    

Thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội khóa XV và Nghị quyết số 86/NQ-CP ngày 6/8/2021 của Chính phủ, Bộ Y tế đã rút ngắn thời gian cấp số lưu hành, giấy phép nhập khẩu để tăng số lượng mặt hàng cung ứng trên thị trường.

Chủ động hỗ trợ thúc đẩy việc sản xuất trang thiết bị y tế trong nước để mở rộng, chủ động nguồn cung ứng, tăng sự cạnh tranh, hiện tại đã có một số nhóm mặt hàng như: Máy thở, máy oxy dòng cao HFNC, test-kít xét nghiệm virus SARS-Cov-2,… doanh nghiệp Việt Nam sản xuất và đưa ra thị trường. Vận động các doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế tài trợ sinh phẩm xét nghiệm cho Việt Nam.

Bên cạnh việc thực hiện các giải pháp nhằm tăng nguồn cung trang thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm, Bộ Y tế cũng đã triển khai nhiều biện pháp để quản lý giá trang thiết bị, giá xét nghiệm.

Theo Bộ Y tế, với các giải pháp này, đến nay về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu về trang thiết bị y tế và sinh phẩm xét nghiệm phục vụ công tác phòng, chống dịch.

Cùng với sự gia tăng của các loại sinh phẩm xét nghiệm trên thị trường Việt Nam, giá test trung bình do các công ty công bố cũng đã giảm nhiều. Lý giải cho việc giá xét nghiệm vẫn còn nhiều mức, Bộ Y tế cho biết, đối với các cơ sở y tế công lập mức giá khác nhau là do áp dụng thanh toán chi phí xét nghiệm theo phương thức thực thanh thực chi. Giá xét nghiệm gồm chi phí liên quan đến việc lấy mẫu, trả kết quả xét nghiệm, vật tư tiêu hao, điện nước, nhân công cộng chi phí test xét nghiệm từ 1/7/2021.Trong đó, chi phí liên quan đến việc lấy mẫu, trả kết quả xét nghiệm, vật tư tiêu hao, điện nước, nhân công sẽ được thanh toán theo cùng 1 một mức; giá chi phí xét nghiệm được thanh toán theo kết quả đấu thầu mua sinh phẩm.  Đối với cơ sở y tế tư nhân theo quy định của pháp luật hiện hành thì cơ sở được quyết định giá dịch vụ xét nghiệm nhưng phải kê khai, công khai giá.

Về đảm bảo nguồn cung thuốc điều trị COVID-19, ngay từ khi dịch bệnh bùng phát, Bộ Y tế đã chủ động đưa ra các hướng dẫn điều trị và triển khai các giải pháp đảm bảo nguồn cung cho các thuốc điều trị COVID-19. Do vậy nhu cầu về thuốc điều trị đã đáp ứng đủ và kịp thời trong cả 4 giai đoạn dịch bệnh vừa qua.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý trang thiết bị y tế

Về các giải pháp trong thời gian tới, để đảm bảo nguồn cung trang thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm và quản lý giá trang thiết bị, giá xét nghiệm, Bộ Y tế đã trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung các Nghị định về quản lý trang thiết bị y tế nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý trang thiết bị y tế, trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như minh bạch toàn bộ quá trình cấp phép lưu hành, đơn giản hóa các giấy tờ trong quá trình cấp phép, trong đó bao gồm cả việc áp dụng mẫu hồ sơ đăng ký trang thiết bị y tế theo thông lệ của quốc tế; thay đổi cơ bản cơ chế quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm; bổ sung các biện pháp quản lý giá trang thiết bị y tế. 

Đồng thời, bổ sung quy định về bình ổn giá trang thiết bị y tế; xây dựng, triển khai Đề án sản xuất trang thiết bị y tế trong nước. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh trang thiết bị y tế, tập trung quản lý, đánh giá chất lượng sau bán hàng.

Tạo cơ chế pháp lý thuận lợi cho việc nhập khẩu, sản xuất thuốc, vaccine

Để đảm bảo nguồn cung thuốc điều trị COVID-19, Bộ sẽ hoàn thiện hệ thống pháp về dược để tạo cơ chế pháp lý thuận lợi cho việc nhập khẩu, sản xuất thuốc, vắc xin. Làm việc với các doanh nghiệp nước ngoài để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam về việc nhượng quyền tự nguyện để sản xuất thuốc Molnupiravir tại Việt Nam; chủ động hướng dẫn, hỗ trợ, các đơn vị nghiên cứu, các nhà sản xuất trong nước triển khai nghiên cứu, hoàn thiện hồ sơ nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, hồ sơ đăng ký lưu hành thuốc điều trị COVID-19. Xây dựng các mức dự trù sử dụng, trong đó chấp nhận mua thuốc với số lượng đáp ứng nhu cầu cho kịch bản dịch có diễn tiến xấu vì khả năng dư thừa thuốc khi dịch được kiểm soát tốt. Tăng cường thúc đẩy việc nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng, chuyển giao công nghệ và sản xuất thuốc điều trị COVID-19 và các vắc xin dự phòng COVID-19; Ưu tiên xử lý, thẩm định, nhanh các hồ sơ đăng ký thuốc điều trị COVID-19.

Giảm thiểu sự chênh lệch chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh giữa các tuyến, các vùng miền

Trong thời gian phòng, chống dịch COVID-19, y tế cơ sở đã có vai trò quan trọng trong cả phòng, chống dịch và chăm sóc, quản lý sức khỏe người dân, đặc biệt là người cao tuổi, người mắc bệnh mạn tính tại cộng đồng. Mạng lưới y tế cơ sở phát huy vai trò của mình với phương châm “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng”, giám sát, điều tra dịch tễ người đi đến từ vùng dịch để có biện pháp xử lý kịp thời. Khi xảy ra đợt dịch lần thứ 4 năm 2021 càng thấy rõ hơn vai trò của y tế cơ sở trong việc thực hiện việc xét nghiệm, cách ly, tiêm chủng, điều trị, đặc biệt là trong quản lý, chăm sóc F0 tại nhà giúp giảm bệnh nặng, góp phần giảm tử vong.

Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tham mưu trình Chính phủ, Quốc hội dự thảo Luật khám bệnh chữa bệnh và Luật bảo hiểm y tế sửa đổi nhằm đổi mới đào tạo nguồn nhân lực y tế theo hướng hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ; phát triển hệ thống y tế bảo đảm đồng đều giữa các tuyến.

Tiếp tục tập trung đầu tư cho các địa phương phát triển y tế kỹ thuật cao, chuyên sâu ngay tại chính địa phương. Các địa phương chủ động xây dựng và ban hành các chính sách về chế độ đãi ngộ, thu hút nhân lực về địa phương.

Nâng cao trình độ chuyên môn, chất lượng dịch vụ y tế tại tuyến cơ sở để khuyến khích người dân khám, chữa bệnh tại tuyến cơ sở, giảm tỷ lệ chuyển tuyến trên; Tăng cường kiểm định lâm sàng bên ngoài, nội kiểm tại các cơ sở khám, chữa bệnh, giám sát, đánh giá tuân thủ hướng dẫn chuyên môn để cải thiện việc chỉ định dịch vụ kỹ thuật, chẩn đoán, điều trị; Thực hiện các giải pháp nhằm hạn chế việc chỉ định dịch vụ kỹ thuật, thuốc, chỉ định điều trị nội trú... vượt quá mức cần thiết.

Đẩy nhanh lộ trình việc thực hiện giá dịch vụ y tế được tính đúng, tính đủ đảm bảo thu đủ chi và trả công tương xứng với cán bộ y tế.

Tiếp tục đẩy mạnh phát triển y dược cổ truyền, kết hợp y dược cổ truyền với y dược hiện đại.

Nâng cao năng lực của hệ thống y tế cơ sở, đặc biệt là ở các vùng khó khăn

Y tế cơ sở bao gồm đơn vị y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; trạm y tế xã, phường, thị trấn và đội ngũ nhân viên y tế thôn bản, cô đỡ thôn bản. Thời gian qua, y tế cơ sở đã có nhiều thay đổi cùng với sự phát triển của đất nước; luôn giữ vai trò, vị trí là tuyến y tế trực tiếp gần dân nhất, bảo đảm cho mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ cơ bản với chi phí thấp, góp phần thực hiện công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, an sinh xã hội, an ninh quốc phòng và tạo niềm tin của nhân dân với chế độ xã hội chủ nghĩa.

Để củng cố, hoàn thiện tổ chức của mạng lưới y tế cơ sở, Bộ Y tế sẽ rà soát hệ thống văn bản về hệ thống y tế cơ sở để sửa đổi, bổ sung kịp thời, tạo sự thống nhất, ổn định về tổ chức bộ máy và hoạt động của y tế cơ sở.

Hoàn thiện tổ chức mạng lưới y tế cơ sở theo hướng trung tâm y tế huyện đa chức năng, quản lý toàn diện và điều phối nguồn lực cho y tế trên địa bàn huyện. Nghiên cứu đề xuất thành lập trạm y tế theo cụm dân cư và quy mô dân số; thí điểm trung tâm y tế huyện thuộc Uỷ ban nhân dân huyện quản lý; Sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị y tế tuyến y tế cơ sở đảm bảo thực hiện theo nguyên lý y học gia đình, thúc đẩy sự phối hợp giữa các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập và giữa các tuyến y tế, cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe toàn diện, liên tục và lồng ghép. Nâng cao chất lượng quản trị của hệ thống y tế cơ sở trong việc cung ứng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu tại trạm y tế xã.

Đồng thời, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của y tế cơ sở, theo đó, xác định phạm vi cung ứng dịch vụ của mạng lưới y tế cơ sở, trong đó xem xét đến tính đặc thù, phù hợp với các vùng miền khác nhau. Sửa đổi, bổ sung gói dịch vụ y tế cung cấp tại y tế cơ sở kèm theo đơn giá/định mức dịch vụ làm cơ sở để phân bổ ngân sách dựa trên kết quả hoạt động và kết quả đầu ra, đảm bảo cung ứng đủ thuốc, trang thiết bị cơ bản cho y tế cơ sở, đẩy mạnh quản lý một số bệnh không lây nhiễm tại trạm y tế xã.

Xây dựng lối sống lành mạnh, khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ y tế tại y tế cơ sở

Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe tuyến cơ sở phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức. Tập trung công tác truyền thông thay đổi hành vi, phòng chống các yếu tố nguy cơ bất lợi cho sức khỏe và xây dựng lối sống lành mạnh, khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ y tế tại y tế cơ sở. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, đánh giá công tác y tế cơ sở, việc thực hiện tự chủ và sử dụng quỹ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ở bệnh viện tuyến huyện.

Cùng với đó, tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đẩy mạnh chuyển giao kỹ thuật từ tuyến trên cả bằng phương thực trực tiếp và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ về dân số cho cán bộ y tế, dân số của Trung tâm y tế cấp huyện, trạm y tế xã, nhất là tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về dân số và phát triển.

Đổi mới cơ chế tài chính cho hoạt động của y tế cơ sở để đảm bảo sự hỗ trợ bền vững về tài chính cho y tế cơ sở thông qua cơ chế cung ứng dịch vụ được bảo hiểm y tế hay ngân sách nhà nước thanh toán.

Chuẩn hóa mô hình đào tạo phù hợp với Khung trình độ quốc gia và hội nhập quốc tế

Trong giai đoạn vừa qua, công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực y tế đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng đáp ứng yêu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày càng tốt hơn. Hệ thống đào tạo nhân lực y tế đã có sự phát triển mạnh mẽ với nhiều trường đại học, cao đẳng và trung cấp trên cả nước; đội ngũ nhân lực y tế ngày càng được tăng cường về số lượng và chất lượng, có phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn giỏi đáp ứng về cơ bản yêu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân tất cả các tuyến y tế từ trung ương đến tận vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.

Thời gian tới, Bộ tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến đặc thù đào tạo nhân lực y tế nhằm tạo môi trường pháp lý triển khai đổi mới đào tạo nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu đảm bảo và nâng cao chất lượng nhân lực y tế, tiến tới hội nhập quốc tế; chuẩn hóa mô hình đào tạo phù hợp với Khung trình độ quốc gia và hội nhập quốc tế; hoàn thành xây dựng chuẩn năng lực, chuẩn đầu ra, chuẩn chương trình, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo khối ngành sức khỏe theo hướng dựa trên năng lực, phù hợp với từng lĩnh vực, chuyên ngành và trình độ đào tạo gắn với yêu cầu trong tình hình mới và nhu cầu sử dụng của hệ thống y tế.

Tiếp tục hoàn thiện chính sách về xác định vị trí việc làm, công nhận chức danh hành nghề, giảng dạy lâm sàng; chế độ đãi ngộ về lương, phụ cấp cho người giảng dạy, người học chuyên khoa, ... Xây dựng cơ chế tài chính về học bổng, học phí, kinh phí đào tạo,... phù hợp với đặc thù đào tạo nhân lực y tế.

Đào tạo và đào tạo lại để đáp ứng đủ số lượng cán bộ y tế các tuyến theo yêu cầu của công tác phòng, chống dịch, đặc biệt chú trọng và tăng cường đào tạo cán bộ y tế các chuyên khoa. Tiếp tục triển khai các đề án đào tạo nhân lực y tế cho vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa; từng bước đảm bảo số lượng và chất lượng nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe dân tại tuyến cơ sở, vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa.

Về chế độ cho đội ngũ cán bộ y tế, trong thời gian dịch COVID-19, để kịp thời động viên cán bộ, viên chức y tế tham gia phòng chống dịch, Bộ Y tế đã tham mưu, trình Chính phủ ban hành các Nghị quyết: quy định một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19; chi phí cách ly y tế, khám, chữa bệnh và một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19; quy định chế độ chống dịch cho các tình nguyện viên; các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 để thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội khóa XV.

Nâng cao năng lực hệ thống y tế dự phòng và y tế cơ sở

Thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục nâng cao năng lực cho hệ thống y tế dự phòng và y tế cơ sở để thực hiện tốt hơn công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân; Nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh gắn với đổi mới y tế cơ sở. Thực hiện đãi ngộ xứng đáng đối với cán bộ y tế; có các chính sách đủ mạnh để khuyến khích người có trình độ chuyên môn làm việc tại y tế cơ sở, các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo và trong lĩnh vực y tế dự phòng” theo tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.

PT