Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang đề nghị xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 02/2013/NĐ-CP quy định về Công tác gia đình.
Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, sau hơn 10 năm triển khai Nghị định số 02/2013/NĐ-CP ngày 03/01/2013 về công tác gia đình đã đạt được những thành tựu đáng kể, công tác xây dựng chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý về gia đình; việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình các cấp; Tuyên truyền, vận động, phổ biến kiến thức về công tác gia đình,... được quan tâm thực hiện hiệu quả.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện công tác gia đình theo quy định tại Nghị định số 02/2013/NĐ-CP cũng đã bộc lộ những bất cập đó là: Nghị định số 02/2013/NĐ-CP đến nay không còn phù hợp, nhiều nội dung như: Một số nội dung quy định trong Nghị định thiếu đồng bộ, thống nhất với nội dung trong văn bản làm căn cứ ban hành hoặc một số nội dung không còn phù hợp với chủ trương, chính sách pháp luật liên quan đến công tác gia đình trong tình hình mới. Cụ thể, về nội dung công tác gia đình tại khoản 1 Điều 6 là "thực hiện kế hoạch hóa gia đình" không còn phù hợp với chủ trương của Đảng trong công tác dân số hiện nay theo tinh thần của Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban chấp hành Trung ương khóa XII; Về tổ chức, cơ quan cung ứng dịch vụ công thuộc lĩnh vực gia đình quy định tại Điều 7 của Nghị định không còn phù hợp với quy định tại Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28 tháng 6 năm 2012 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập, Luật doanh nghiệp và các quy định của pháp luật có liên quan...).
Bên cạnh những bất cập về nội dung trong Nghị định thì vẫn còn những khoảng trống chưa được quy định khiến cho việc tổ chức thực hiện gặp nhiều khó khăn. Cụ thể: (1) Nghị định chưa quy định về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong thực hiện Công tác gia đình, chưa thống nhất công tác chỉ đạo, điều hành từ Trung ương, đến địa phương. (2) Gia đình là một trong 4 lĩnh vực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhưng hiện nay, tại các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, Công tác gia đình được ghép với một bộ phận của lĩnh vực văn hóa. (3) Giá trị của gia đình được xác định là một trong 4 giá trị quan trọng cần được ưu tiên để xây dựng trong tình hình mới. Vì vậy, cần phải bổ sung quy định này vào nhiệm vụ của Công tác gia đình để có cơ sở tổ chức thực hiện. (4) Đảng và Nhà nước đang đẩy mạnh việc chuyển đổi số, môi trường gia đình là nền tảng, là trường học ban đầu trong giáo dục nguồn nhân lực cho đất nước. Nghị định tuy quy định về xây dựng cơ sở dữ liệu nhưng chưa quy định cụ thể và đặc biệt chưa định hướng trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong triển khai Công tác gia đình, thực hiện số hóa trong quản lý Nhà nước về gia đình. (5) Công tác gia đình chủ yếu triển khai ở cộng đồng, tuy nhiên, nguồn nhân lực hiện nay chưa đáp ứng. Việc phối hợp cùng xây dựng mạng lưới cộng tác viên ở cộng đồng là giải pháp thúc đẩy Công tác gia đình. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình khuyến khích sử dụng đội ngũ cộng tác viên dân số tham gia công tác gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình. Bên cạnh đó, căn cứ pháp lý để ban hành Nghị định số 02/2013/NĐ-CP đến nay hầu hết đã hết hiệu lực thi hành cần được được thay thế bằng văn bản mới. Vì vậy, việc cụ thể hóa quy định này không chỉ là để triển khai Luật mà còn là giải pháp để nâng cao hiệu quả của Công tác gia đình.
Việc tổ chức thực hiện các quy định của Nghị định số 02/2013/NĐ-CP chưa được đồng bộ, thống nhất tại các Bộ, Ngành, địa phương, cụ thể: Tại một số địa phương, Ban Chỉ đạo công tác gia đình chưa phát huy hiệu quả, việc chỉ đạo, lãnh đạo chưa quyết liệt và việc phối hợp giữa các thành viên Ban Chỉ đạo và các cấp, các ngành còn nặng về hình thức, chưa thiết thực. Một số địa phương đã sáp nhập Ban Chỉ đạo công tác gia đình vào Ban Chỉ đạo Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Tuy nhiên, sau khi sáp nhập thì hoạt động liên quan đến gia đình vẫn không có khởi sắc, thậm chí còn mờ nhạt hơn. Bản chất của vấn đề trên là do một số địa phương cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan, ban, ngành, đoàn thể chưa thực sự quan tâm đến Công tác gia đình do chưa xác định được tầm quan trọng của lĩnh vực này đối với phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, trật tự của địa phương. Nguồn lực đầu tư cho công tác gia đình còn hạn chế, năng lực đội ngũ cán bộ thực hiện công tác gia đình chưa cao; chưa có chế độ bồi dưỡng cho mạng lưới cộng tác viên, tình nguyện viên tại cộng đồng.
Các mô hình về xây dựng gia đình đã được nhiều cơ quan, tổ chức xây dựng, thí điểm và triển khai thực hiện nhằm hỗ trợ gia đình phát triển bền vững và thực hiện phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, việc thực hiện chưa có sự chuẩn hóa dẫn đến chồng chéo và tính bền vững chưa cao. Cụ thể, mô hình "Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" được thí điểm tại 08 tỉnh, thành phố nhưng khi đề án hỗ trợ của Trung ương kết thúc cũng không phát huy được hiệu quả; các mô hình về phòng, chống bạo lực gia đình giảm cơ bản hoạt động sau khi hết giai đoạn hỗ trợ từ các dự án, chương trình thí điểm; mạng lưới "Địa chỉ tin cậy tại cộng đồng" được báo cáo bao phủ hầu khắp các xã, phường, thị trấn và ngày càng tăng về số lượng nhưng việc hỗ trợ người bị bạo lực gia đình còn hạn chế, chưa tương xứng với quy mô của địa chỉ tin cậy đã được công nhận.
Từ những thực trạng này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho rằng, việc ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định số 02/2013/NĐ-CP ngày 03/01/2013 của Chính phủ về Công tác gia đình là hết sức cần thiết. Việc sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định sẽ tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho công tác gia đình; đồng thời, khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong công tác gia đình thời gian qua.
Dự thảo đề xuất 2 chính sách
Chính sách 1: Hoàn thiện nội dung quản lý Nhà nước về gia đình, tăng cường cơ chế phối hợp và các điều kiện bảo đảm để thực hiện công tác gia đình.
Mục tiêu của chính sách này nhằm tăng cường các điều kiện bảo đảm nhằm tạo sự chủ động, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước trong thực hiện Công tác gia đình cũng như nguồn lực cần thiết cho việc triển khai thi hành chính sách, pháp luật của Nhà nước về gia đình sau khi được Chính phủ ban hành để đi vào cuộc sống.
Nội dung của chính sách: Sửa đổi các biện pháp bảo đảm cho công tác gia đình; Bổ sung thêm một số biện pháp mới khắc phục những bất cập trong công tác gia đình; trong phân bổ nguồn lực Nhà nước cho công tác gia đình; Quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan tổ chức, đứng đầu chính quyền cơ sở và tăng cường công tác phối hợp liên ngành thực hiện công tác gia đình.
Các giải pháp thực hiện nội dung chính sách: Sửa đổi, bổ sung các biện pháp bảo đảm cho công tác gia đình và bổ sung thêm một số biện pháp mới khắc phục những bất cập trong công tác gia đình; trong phân bổ nguồn lực Nhà nước cho công tác gia đình; làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan tổ chức, đứng đầu chính quyền cơ sở và tăng cường công tác phối hợp liên ngành từ đó phát huy vai trò của công tác gia đình trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về gia đình và đưa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về gia đình đi vào cuộc sống.
Chính sách 2: Khuyến khích xã hội hóa và đẩy mạnh phân cấp trong thực hiện Công tác gia đình.
Mục tiêu của chính sách này nhằm bổ sung nguồn lực cho công tác gia đình thông qua việc tăng cường các biện pháp khuyến khích xã hội hóa trong công tác gia đình; thực hiện về biểu dương, tuyên dương kịp thời tập thể, cá nhân có thành tích đặc biệt trong công tác gia đình; đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền để bảo đảm tính chủ động, nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về công tác gia đình các cấp trong triển khai nội dung quản lý Nhà nước về công tác gia đình.
Nội dung của chính sách: Sửa đổi, bổ sung các quy định về biểu dương người có đóng góp đặc biệt cho công tác gia đình ở cơ sở; Bổ sung quy định hỗ trợ cho cộng tác viên dân số tham gia công tác gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình ở cộng đồng; Bổ sung quy định về các loại hình tư vấn, hỗ trợ các gia đình phát triển bền vững, chủ động hội nhập quốc tế.
Các giải pháp thực hiện chính sách: Sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích xã hội hóa trong công tác gia đình. Cụ thể là các quy định về biểu dương người có đóng góp đặc biệt cho công tác gia đình ở cơ sở; quy định hỗ trợ cho cộng tác viên dân số tham gia công tác gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình ở cộng đồng; các chính sách khuyến khích xã hội hóa, biểu dương, khen thưởng kịp thời tập thể, cá nhân có thành tích đặc biệt cho công tác gia đình; xây dựng chính sách phát triển các loại hình tư vấn, hỗ trợ các gia đình phát triển bền vững, chủ động hội nhập quốc tế, đặc biệt là thích ứng với việc hình thành tính đa dạng của loại hình gia đình, văn hóa trong gia đình.