Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương; Thứ trưởng Hồ An Phong chủ trì Hội nghị.
Dự Hội nghị có Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thị Mai; đại diện Văn phòng Chính phủ, các ban, Bộ, Ngành; lãnh đạo các Cục, Vụ, đơn vị chức năng, các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; đại diện lãnh đạo một số Liên đoàn, Hiệp hội, các tổ chức kinh tế.
Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, kết nối 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với sự tham dự của lãnh đạo UBND tỉnh, thành phố; lãnh đạo các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch; lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành…
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Hoàng Đạo Cương đã Công bố nội dung Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 509/QĐ-TTg ngày 13/6/2024.
Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 991/QĐ-TTg ngày 16/9/2024.
Quy hoạch hệ thống du lịch
Bao gồm các nội dung: phạm vi quy hoạch; quan điểm; mục tiêu; định hướng phát triển; danh mục dự án ưu tiên đầu tư; giải pháp thực hiện quy hoạch và tổ chức thực hiện.
Về quan điểm: Quy hoạch được xây dựng theo quan điểm phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và đi vào chiều sâu; chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc đẩy các ngành và lĩnh vực khác; góp phần quan trọng hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại.
Phát triển du lịch quốc tế đồng thời với tăng cường khai thác có hiệu quả du lịch nội địa; phát huy hiệu quả vai trò động lực của doanh nghiệp và cộng đồng dân cư; tăng cường hiệu quả liên kết ngành giữa du lịch với các ngành, lĩnh vực khác và liên kết vùng, địa phương và quốc tế.
Phát triển du lịch trên cơ sở khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế quốc gia, phát huy yếu tố con người, lấy giá trị văn hóa Việt Nam làm nền tảng; gắn phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy giá trị di sản và bản sắc văn hóa dân tộc.
Phát triển du lịch gắn với chuyển đổi số, tận dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh.
Phát triển du lịch bền vững, sáng tạo, trên nền tảng tăng trưởng xanh, tối đa hóa sự đóng góp của du lịch cho các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp quốc; bảo vệ môi trường, ứng phó linh hoạt và hiệu quả với rủi ro, biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.
Về mục tiêu tổng quát: Đến năm 2025, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, có năng lực phát triển du lịch cao trên thế giới. Đến năm 2030, du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển theo hướng tăng trưởng xanh; trở thành điểm đến có năng lực phát triển hàng đầu thế giới.
Trong đó, mục tiêu cụ thể: Năm 2025 phấn đấu đón từ 25-28 triệu lượt khách quốc tế; 130 triệu lượt khách nội địa, duy trì tốc độ tăng trưởng khách nội địa từ 8-9%/năm. Đến năm 2030, đón 35 triệu lượt khách quốc tế, tốc độ tăng trưởng từ 13-15%/năm; đón 160 triệu lượt khách nội địa, tốc độ tăng trưởng khách nội địa từ 4-5%/năm.
Về định hướng phát triển thị trường: Đối với thị trường nội địa xác định giai đoạn 2021-2025 phục hồi và giữ vững đà tăng trưởng của thị trường khách nội địa; Giai đoạn 2026- 2030: Đẩy mạnh khai thác các phân đoạn thị trường chi trả cao, lưu trú dài ngày, các thị trường mới về du lịch golf, du lịch thể thao, du lịch mạo hiểm.
Thị trường quốc tế: Giai đoạn 2021-2025: Phục hồi các thị trường truyền thống, kết hợp thu hút các thị trường mới nổi: Ấn Độ, các nước Trung Đông; Giai đoạn 2026-2030: Duy trì và mở rộng quy mô các thị trường truyền thống: các nước Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Châu Âu, Bắc Mỹ, Nga và Đông Âu, Châu Đại dương; đa dạng hóa các thị trường, chuyển dịch theo hướng tăng thị phần khách có khả năng chi trả cao.
Về định hướng phát triển sản phẩm: Phát triển các dòng sản phẩm chính: Khai thác tối ưu tài nguyên du lịch biển, đảo để phát triển các sản phẩm du lịch có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực về nghỉ dưỡng biển, sinh thái biển và du lịch tàu biển. Phát triển các trung tâm nghỉ dưỡng biển cao cấp, có thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế.
Phát huy giá trị văn hóa vùng, miền làm nền tảng xây dựng các sản phẩm du lịch gắn với di sản, lễ hội, tham quan và tìm hiểu lối sống, ẩm thực; kết nối các di sản Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới; gắn kết hiệu quả du lịch với công nghiệp văn hóa.
Phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái dựa trên lợi thế về tài nguyên tự nhiên, đặc biệt là tại các khu dự trữ sinh quyển thế giới, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên và khu bảo tồn biển; coi trọng phát triển du lịch sinh thái rừng ngập mặn, sinh thái miệt vườn, sinh thái hang động, sông, hồ.
Phát triển các sản phẩm du lịch gắn với các đô thị trung tâm: Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ; các đô thị đặc thù, như: Đô thị di sản Hội An (Quảng Nam), Huế (Thừa Thiên Huế); các đô thị trọng điểm phát triển du lịch, như: Sa Pa (Lào Cai), Hạ Long (Quảng Ninh), Nha Trang (Khánh Hòa), Đà Lạt (Lâm Đồng), Phan Thiết (Bình Thuận), Phú Quốc (Kiên Giang); chú trọng gắn kết du lịch với công nghiệp văn hóa và phát triển kinh tế ban đêm.
Phát triển các loại hình du lịch mới theo hướng đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với những xu hướng mới của thị trường: du lịch kết hợp chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe và thẩm mỹ; du lịch nông nghiệp, nông thôn; du lịch thể thao, thể thao mạo hiểm; du lịch hội nghị, hội thảo, sự kiện (MICE); du lịch giáo dục; du lịch du thuyền; du lịch công nghiệp;
Phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, nổi trội theo vùng; hình thành sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng và tạo dựng thương hiệu du lịch vùng trên cơ sở tăng cường liên kết vùng
Về định hướng tổ chức không gian du lịch: Quy hoạch phát triển không gian du lịch Việt Nam gồm: 6 vùng, 3 cực tăng trưởng, 8 khu vực động lực, 5 hành lang du lịch chính, 11 trung tâm du lịch; hình thành hệ thống các Khu du lịch quốc gia và địa điểm tiềm năng phát triển thành Khu du lịch quốc gia.
Về tổ chức, phát triển hệ thống doanh nghiệp du lịch: Phát triển hệ thống doanh nghiệp du lịch có thương hiệu, năng lực cạnh tranh, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng du lịch khu vực và thế giới; đa dạng hóa các mô hình doanh nghiệp du lịch phù hợp với xu hướng và yêu cầu phát triển.
Về phát triển nguồn nhân lực du lịch: Phát triển nguồn nhân lực bảo đảm đủ số lượng, yêu cầu về chất lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo, đáp ứng nhu cầu thị trường và phù hợp với các định hướng phát triển sản phẩm, tổ chức không gian.
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch bền vững; hướng tới xây dựng đội ngũ nhân lực của ngành Du lịch có chất lượng cao, có ý thức, trách nhiệm trong việc đầu tư tôn tạo, bảo tồn và duy trì tính nguyên vẹn của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm môi trường xanh - sạch - đẹp.
Tập trung nâng cao kỹ năng nghề, năng lực quản trị và quản lý Nhà nước về du lịch, đủ điều kiện tham gia vào chuỗi cung ứng du lịch toàn cầu.
Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao
Bao gồm các nội dung chính: phạm vi, đối tượng quy hoạch; quan điểm, mục tiêu; phương hướng phát triển mạng lưới văn hóa và thể thao; danh mục dự án ưu tiên đầu tư; giải pháp thực hiện.
Về quan điểm phát triển: Quy hoạch được xây dựng theo quan điểm phát triển mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao đáp ứng yêu cầu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển thể dục, thể thao đồng bộ cả về chiều rộng và chiều sâu, bảo đảm phát triển bền vững, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và chủ quyền quốc gia; gắn kết với các nhiệm vụ và góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững, phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng và các quy hoạch khác có liên quan.
Phát triển mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao kết nối hiệu quả từ Trung ương đến địa phương; bảo đảm sự cân đối, hài hòa, phù hợp với các vùng, miền và giữa các lĩnh vực, nhất là các đối tượng chính sách và yếu thế, đồng bào các dân tộc thiểu số; góp phần chấn hưng và phát triển văn hóa Việt Nam, phát huy tối đa vai trò quan trọng của thể dục, thể thao.
Huy động sức mạnh tổng hợp và đẩy mạnh xã hội hóa nhằm phát huy các nguồn lực phát triển mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với điều kiện thực tiễn, theo từng địa bàn và từng giai đoạn.
Về mục tiêu phát triển: Mạng lưới cơ sở văn hóa quốc gia đồng bộ, hiện đại, bản sắc, hướng đến xây dựng hình ảnh quốc gia gắn với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại, đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định và nhu cầu thực tiễn; bảo đảm công bằng trong tham gia, hưởng thụ của Nhân dân các vùng, khu vực trong cả nước; bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm liên kết vùng và liên kết với các kết cấu hạ tầng khác trong phạm vi lãnh thổ.
Mạng lưới cơ sở thể dục, thể thao quốc gia được phát triển đồng bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu tập luyện và hưởng thụ của Nhân dân; yêu cầu tập luyện và thi đấu đạt chuẩn quốc tế đối với các môn thể thao trọng điểm, có mục tiêu giành huy chương châu lục, thế giới; đủ điều kiện tổ chức các sự kiện thể thao có quy mô lớn ở khu vực và châu lục.
Phát triển mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao gắn với cơ chế thị trường, là nguồn lực phát triển công nghiệp văn hóa và kinh tế thể thao. Hình thành các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội, phục vụ học tập, rèn luyện suốt đời của người dân, góp phần xây dựng xã hội học tập và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tầm nhìn đến năm 2045, mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao quốc gia phát triển cân đối, phân bố không gian hợp lý, trở thành thương hiệu, đại diện cho nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc; hình thành những công trình mang đậm bản sắc văn hóa, có tính biểu tượng cho Việt Nam hội nhập trong thế kỷ 21, trở thành những dấu ấn lịch sử và di sản dành cho tương lai.
Hình thành các trung tâm về văn hóa, thể thao trọng điểm gắn với các đô thị quan trọng của quốc gia và vùng tại: Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng, Huế, Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ; tạo lập sự liên kết chặt chẽ giữa các cấp; đăng cai tổ chức thành công Đại hội Thể thao châu Á.
Tại Hội nghị, đại diện các đơn vị thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các địa phương đã thảo luận, đóng góp ý kiến nhằm đề xuất các giải pháp hiện thực hóa mục tiêu trong 2 Quy hoạch.
Theo Cục trưởng Cục Thể dục thể thao Đặng Hà Việt, đối với quy hoạch mạng lưới Trung tâm Đào tạo và Huấn luyện thể thao, đây là hệ thống đào tạo nhiều năm, nhiều giai đoạn và có trách nhiệm từ Trung ương đến địa phương. Ngoài 4 Trung tâm Huấn luyện Thể thao Quốc gia (Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và Cần Thơ) là các Trung tâm Huấn luyện thể thao vệ tinh đặt tại các địa phương thì cần phối hợp để xây dựng mạng lưới tổng thể trong công tác tuyển chọn, đào tạo vận động viên để hướng tới đạt thành tích tại đấu trường châu lục và thế giới.
Đối với mạng lưới trung tâm hoạt động thể thao, bao gồm 3 khu liên hợp thể thao quốc gia, mục tiêu để tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao tầm cỡ quốc tế, chẳng hạn như SEA Games, ASIAD. Theo Cục trưởng Đặng Hà Việt, muốn tổ chức SEA Games hay ASIAD thì số lượng môn thi đấu khoảng tầm 40 môn, các khu liên hợp thể thao quốc gia chỉ đáp ứng chừng 20 môn, 20 môn còn lại hoặc hơn nữa thì các nhà thi đấu hoặc khu liên hợp thể thao địa phương đáp ứng. Không thể nào dồn hết vào các Khu liên hợp Thể thao Quốc gia.
Từ góc độ du lịch, Cục trưởng Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam Nguyễn Trùng Khánh nhấn mạnh, với nhiều điểm mới, có thể khẳng định, Quy hoạch hệ thống du lịch du lịch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 được thực hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và các ngành liên quan khác như Giao thông, Xây dựng, Biển đảo..., nhất là Quy hoạch tổng thể quốc gia. Quy hoạch đã cơ bản giải quyết được các nhu cầu thực tiễn, đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ trước mắt, lâu dài; khắc phục được những tồn tại, bất cập, bảo đảm phát huy lợi thế quốc gia, tiềm năng, thế mạnh du lịch của từng vùng, từng địa phương.
Theo Cục trưởng Cục Văn hóa cơ sở Ninh Thị Thu Hương, nhằm đạt được các mục tiêu đồng bộ, hiện đại, bản sắc như Quy hoạch đề ra, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Đặc biệt, bố trí các nguồn lực cho phát triển văn hóa, thể thao bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, theo lộ trình, mục tiêu được xác định cụ thể thông qua các Chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình mục tiêu, các dự án, đề án...
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách nhằm thu hút, huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội hóa đối với thiết chế văn hóa, thể thao các cấp; chế độ ưu đãi, đào tạo hạt nhân năng khiếu về văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao. Đồng thời, bố trí quỹ đất để đầu tư xây dựng, hoàn thiện, sửa chữa, nâng cấp thiết chế văn hóa, thể thao các cấp; đầu tư, mua sắm, trang thiết bị, cơ sở vật chất, phương tiện chuyên dùng; đảm bảo kinh phí hoạt động nghiệp vụ theo chức năng, nhiệm vụ đối với thiết chế văn hóa, thể thao; rà soát, đánh giá quy hoạch hệ thống thiết chế văn hoá, thể thao các cấp để điều chỉnh theo quy định về vị trí, quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng nhu cầu của Nhân dân…
Đẩy mạnh tuyên truyền, tạo thống nhất về nhận thức và hành động, nâng cao hiệu quả trong thực hiện Quy hoạch
Phát biểu kết luận Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hồ An Phong cho biết, sau Hội nghị công bố này Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ chuẩn bị nội dung trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện 2 Quy hoạch trên. Hiện nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã gửi nội dung dự thảo tới các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương, lấy ý kiến hoàn thiện để trình Thủ tướng Chính phủ.
Thứ trưởng Hồ An Phong nêu rõ: "Kế hoạch nhằm triển khai hiệu quả 2 Quy hoạch chuyên ngành quốc gia về văn hóa, thể thao và du lịch; xây dựng lộ trình tổ chức triển khai có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án nhằm hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ quy hoạch đã đề ra. Đồng thời, cụ thể hóa các nhiệm vụ, chính sách, giải pháp gắn với trách nhiệm của các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương trong việc tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch, phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung của các quy hoạch đã được phê duyệt".
Thứ trưởng cho biết thêm, tại Hội nghị đã có 9 ý kiến được chuẩn bị công phu, tham luận sâu sắc và trách nhiệm, không chỉ nêu lên nhận thức và quán triệt các nội dung trong Quy hoạch mà còn gợi mở, đề xuất nhiều giải pháp quan trọng, phục vụ cho các bước đi tiếp theo. Nhiều ý kiến đã gợi mở để triển khai có hiệu quả nội dung các Quy hoạch phù hợp với tình hình thực tế, với từng địa phương, vùng miền, theo từng lĩnh vực.
Thứ trưởng khẳng định, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trân trọng tiếp thu các ý kiến, tham luận và giao cơ quan chủ trì lập Quy hoạch tiếp thu đầy đủ những nội dung đã góp ý. Để thực hiện tốt nội dung quy hoạch, biến khát vọng, tầm nhìn thành hiện thực, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị các cơ quan, đơn vị liên quan cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ cơ bản: đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các nội dung cốt lõi của Quy hoạch đến các tầng lớp Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp nhằm tạo thống nhất về nhận thức và hành động, nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện Quy hoạch.
Thứ trưởng Hồ An Phong nhấn mạnh: “Trên cơ sở nội dung quy hoạch, các cấp, ngành, địa phương, đơn vị phối hợp triển khai kế hoạch thực hiện, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ; người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của địa phương, đơn vị để tập trung chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện, tăng cường tính chủ động, trách nhiệm, làm tốt công tác quản lý quy hoạch, vừa đảm bảo quy hoạch được triển khai trong thực tế, vừa phát huy tối đa nguồn lực thực hiện”.
Lấy dẫn chứng từ việc Hà Nội xác định nguồn lực với 6 yếu tố: con người, tài nguyên và dân số, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao và du lịch; vị thế; thể chế; thời cơ, Thứ trưởng Hồ An Phong cho rằng, nhận thức về nguồn lực để triển khai và hiện thực hóa các mục tiêu có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ ở quy mô quốc gia mà còn đối với từng địa phương.
Thứ trưởng nhấn mạnh, lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đề nghị các địa phương chủ động nghiên cứu, đề nghị sửa đổi các chủ trương, chính sách, quy định đã ban hành cho phù hợp với quy hoạch; đề xuất ban hành mới các cơ chế chính sách phát triển văn hóa, thể thao và du lịch từng thời kỳ, tạo động lực mới cho sự phát triển. Đồng thời, nghiên cứu, đánh giá mức độ thiết yếu, xác định thứ tự ưu tiên đầu tư các công trình, dự án quan trọng phục vụ phát triển văn hóa, thể thao và du lịch theo đúng định hướng quy hoạch đã được phê duyệt; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, có hiệu quả thiết thực. Cùng với đó là chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển ngành. Tăng cường bảo vệ môi trường, ứng dụng khoa học công nghệ để khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả cơ sở vật chất và các nguồn lực văn hóa, thể thao và du lịch.
Phương hướng phát triển mạng lưới cơ sở thể dục, thể thao quốc gia
Đối với mạng lưới trung tâm đào tạo, huấn luyện vận động viên thể thao
Xây dựng, nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo, huấn luyện và nâng cao thành tích tại các Đại hội Thể thao châu lục và thế giới.
Nghiên cứu, đầu tư xây dựng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia trọng điểm thuộc Khu Liên hợp thể thao quốc gia Mỹ Đình (nếu phù hợp) để phục vụ huấn luyện vận động viên cho các môn thể thao trọng điểm, xác định mục tiêu huy chương tại Đại hội Thể thao châu Á và Đại hội Thể thao thế giới.
Tổ chức phân bố mạng lưới các Trung tâm Huấn luyện Thể thao Quốc gia và trung tâm vệ tinh tại các khu vực, địa phương phù hợp với điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất..., đáp ứng yêu cầu huấn luyện chuyên sâu và tổ chức thi đấu các môn thể thao thế mạnh, trọng điểm; được sắp xếp hợp lý về tổ chức bộ máy quản lý theo hướng tinh gọn, hiệu quả.
Đầu tư các trung tâm đào tạo, huấn luyện vận động viên thể thao có quy mô, tiêu chuẩn chuyên ngành của công trình đạt cấp I, II, III đáp ứng yêu cầu huấn luyện, giảng dạy và tổ chức thi đấu quốc tế, quốc gia.
Mạng lưới trung tâm hoạt động thể thao
Đầu tư, phát triển mạng lưới Khu Liên hợp Thể thao Quốc gia tại Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh hiện đại, đồng bộ, bảo đảm theo quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành, đáp ứng yêu cầu tổ chức Đại hội Thể thao khu vực và châu lục.
Hoàn thiện đầu tư theo quy hoạch và khả năng cân đối, huy động nguồn lực đối với Khu Liên hợp Thể thao Quốc gia Mỹ Đình đạt tiêu chuẩn tổ chức Đại hội Thể thao châu Á. Nghiên cứu, đầu tư xây dựng Khu Liên hợp Thể thao Quốc gia Rạch Chiếc tại thành phố Hồ Chí Minh. Hoàn thiện cơ sở vật chất và trang thiết bị của Khu Liên hợp Thể thao Quốc gia Hòa Xuân tại Đà Nẵng.
Nghiên cứu, xây dựng, nâng cấp các khu liên hợp thể thao hoặc trung tâm huấn luyện và thi đấu thể thao của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đóng vai trò là các cơ sở liên kết tổ chức các Đại hội tThể thao khu vực và châu lục, thúc đẩy phát triển thể dục, thể thao vùng, liên vùng, bảo đảm phù hợp với nhu cầu và khả năng huy động, cân đối, bố trí nguồn lực.
Mạng lưới cơ sở nghiên cứu, đào tạo thể dục, thể thao
Nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống cơ sở nghiên cứu, đào tạo thể dục, thể thao quốc gia. Hoàn thành xây dựng trung tâm cơ sở dữ liệu thể dục, thể thao quốc gia, từng bước ứng dụng, khai thác dữ liệu phục vụ công tác quản lý Nhà nước, nghiên cứu, đào tạo thể dục, thể thao.
Các địa phương, ngành Quân đội, ngành Công an chủ động trong việc đáp ứng cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết, phù hợp để phục vụ tuyển chọn, đào tạo, làm cơ sở cung cấp vận động viên cho quốc gia.
Cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị cho các cơ sở có tính chất trọng điểm, như: Viện Khoa học Thể dục thể thao và các trường: Đại học Thể dục thể thao Bắc Ninh, Đại học Thể dục thể thao Đà Nẵng, Đại học Thể dục thể thao thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời, tăng cường tự chủ đối với các trường này, song song với đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, tư vấn chính sách kinh tế và quản trị thể dục, thể thao. Trong đó, trường Đại học Thể dục thể thao Bắc Ninh trở thành trường tiên phong trong chuyển đổi số, có hệ thống quản trị hiện đại, thông minh, chuyên nghiệp vào năm 2030.
Mạng lưới cơ sở dịch vụ thể thao và chữa trị chấn thương, phục hồi chức năng vận động viên
Đầu tư phát triển mạng lưới cơ sở dịch vụ thể thao và chữa trị chấn thương, phục hồi chức năng vận động viên theo hướng mô hình cơ sở y tế chuyên ngành, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật cao trong công tác khám chữa bệnh, chữa trị chấn thương, phục hồi chức năng cho vận động viên thể thao, các trọng tài, huấn luyện viên, cán bộ làm công tác thể thao và Nhân dân.
Đầu tư, nâng cấp Bệnh viện Thể thao Việt Nam trở thành trung tâm khám bệnh, chữa trị chấn thương, phục hồi chức năng cho vận động viên đạt trình độ khu vực và quốc tế.
Nghiên cứu, đầu tư xây dựng Bệnh viện Thể thao khu vực phía Nam trở thành vệ tinh trong hệ thống cơ sở vật chất phục vụ nhu cầu khám bệnh, chữa trị chấn thương, phục hồi chức năng cho vận động viên và Nhân dân trong tập luyện và thi đấu thể thao.
Trụ sở cơ quan văn hóa, thể thao
Tập trung đầu tư cơ sở vật chất theo hướng đồng bộ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của ngành theo quy chuẩn, tiêu chuẩn và nhu cầu thực tiễn; chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong hoạt động.
Trên cơ sở phương hướng phát triển mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao, xác định các dự án lớn, có tính chất quan trọng, tạo động lực thúc đẩy phát triển mạng lưới cơ sở, hệ thống thiết chế văn hóa và thể thao cả nước, theo vùng để ưu tiên đầu tư và thu hút đầu tư, tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng cân đối, huy động vốn đầu tư của từng thời kỳ; tuân thủ đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng, đầu tư công, ngân sách Nhà nước, đất đai và pháp luật có liên quan.