Sửa đổi Luật Di sản văn hóa phù hợp với thực tiễn, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, vì mục tiêu phát triển bền vững

Ngày 12/1, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Hội nghị - Hội thảo tổng kết thực hiện Luật Di sản văn hóa. Hội nghị diễn ra theo hình thức trực tuyến kết nối tới điểm cầu các tỉnh, thành phố trong cả nước. 

Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng phát biểu tại Hội nghị

Luật Di sản Văn hóa có hiệu lực thi hành từ năm 2002 và được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009. Sau 20 năm Luật Di sản văn hóa được ban hành và 10 năm được sửa đổi, bổ sung, sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã và đang được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, ngày càng được sự ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân ở khắp mọi miền đất nước, nhờ đó, đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. 

Tuy nhiên, trước những yêu cầu và đòi hỏi cấp bách từ thực tế đang diễn ra, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa cũng dần bộc lộ một số hạn chế, bất cập cả về nội dung và hình thức trong từng lĩnh vực cụ thể. Do đó, việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa cùng các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành là hết sức cần thiết để bắt kịp sự vận động và biến chuyển của xã hội, điều chỉnh, cụ thể hóa được những vấn đề còn vướng mắc, tạo hành lang pháp lý thuận lợi nhất cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc.

Hội nghị-Hội thảo Tổng kết thực hiện Luật Di sản văn hóa nhằm tổng hợp, đánh giá toàn diện thực trạng triển khai Luật Di sản văn hóa năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 của Bộ, ngành, địa phương; đồng thời đề xuất những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc những nội dung mới chưa có trong quy định và những giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của Luật Di sản văn hóa.

Báo cáo tóm tắt “Tổng kết thực hiện Luật Di sản văn hóa về kết quả đạt được, những tồn tại, khó khăn, hạn chế và những định hướng nhằm hoàn thiện Luật Di sản văn hóa” tại Hội nghị - Hội thảo, Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa Lê Thị Thu Hiền cho biết: Về công tác tổ chức thực hiện Luật Di sản văn hóa, hiện nay, hệ thống pháp luật về di sản văn hóa ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, bao gồm: 1 Luật; 1 Luật sửa đổi, bổ sung; 7 Nghị định của Chính phủ; 3 Quyết định và 1 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Bộ VHTTDL đã ban hành 17 Thông tư, 8 Quyết định, 3 Chỉ thị theo thẩm quyền; đồng thời, Bộ VHTTDL cũng đã phối hợp Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nội vụ để ban hành 2 Thông tư liên tịch. Có thể khẳng định, Di sản văn hóa cũng là lĩnh vực chuyên ngành có hệ thống văn bản pháp lý hoàn chỉnh sớm nhất trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ VHTTDL. 

Tuy nhiên, trước những yêu cầu và đòi hỏi cấp bách từ thực tế đang diễn ra, hệ thống văn quy phạm bản pháp luật về di sản vẳn hóa cũng dần bộc lộ một số hạn chế, bất cập về cả nội dung và hình thức trong từng lĩnh vực cụ thể. Để triển khai có hiệu quả Luật Di sản văn hóa, trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được giao, các Bộ, ngành cũng đã ban hành những văn bản pháp luật, các quy định, quy chế, quy hoạch, đề án để phân công nhiệm vụ và tổ chức thực hiện, như: Bộ Quốc phòng, Bộ Công Thương, Bộ Nội vụ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thông tin và Truyền thông… 

Nhiều địa phương đã ban hành quy chế quản lý và bảo vệ di sản văn hóa, quy chế phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành ở địa phương trong việc phối hợp thực hiện các nội dung quy định của pháp luật về di sản văn hóa và tôn giáo, tín ngưỡng. Theo thống kê chưa đầy đủ, đã có tới hơn 200 văn bản được các cấp chính quyền ban hành trong hơn 10 năm qua. Nội dung nhiều văn bản liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực chủ đạo của di sản văn hóa phi vật thể như: quản lý, kiểm kê, lập hồ sơ, truyền dạy…

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa đã có nhiều tiến bộ trong vấn đề phân cấp và kiểm soát thủ tục hành chính. Hiện nay, đã có 14 thủ tục hành chính (trên tổng số 25 thủ tục hành chính) đã được phân cấp về địa phương. Các thủ tục hành chính đều đơn giản, dễ tiếp cận, dễ thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia thực hiện quy định pháp luật về di sản văn hóa.

Từ khi Luật Di sản văn hóa ra đời năm 2001 đến nay, Bộ VHTTDL đã chỉ đạo Sở VHTTDL/Sở Văn hóa và Thể thao các tỉnh, thành phố tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền phổ biến Luật Di sản văn hóa ở các cấp, các địa phương trong cả nước bằng nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh đó, để các văn bản quy phạm pháp luật được phổ biến rộng rãi tới các cán bộ văn hóa huyện, xã và cộng đồng nơi di sản văn hóa tồn tại, hầu hết các địa phương cũng tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu cho cán bộ văn hóa và cho cộng đồng chủ thể di sản văn hóa. Một số lớp tập huấn thí điểm cho giảng viên di sản văn hóa phi vật thể cũng được UNESCO tổ chức tại Việt Nam để cung cấp thêm kinh nghiệm, nâng cao năng lực chuyên môn, khả năng đào tạo cho đội ngũ hạt nhân, nòng cốt là một số cán bộ quản lý văn hóa tại các tỉnh, thành phố đại diện.

Quang cảnh Hội nghị.

Về tình hình tuân thủ Luật Di sản văn hóa: Qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa, những năm gần đây, nhận thức chung của đại đa số dân cư địa phương tham gia vào hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trên cả nước đã được nâng cao và thu được nhiều kết quả: hiện nay, qua nhiều năm tuyên truyền, phổ biến kiến thức chuyên môn và pháp luật, cộng đồng nhân dân đã hiểu rõ hơn và tham gia tích cực với cán bộ quản lý trong từng dự án tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích, do đó, chất lượng của hoạt động tu bổ di tích từng bước được nâng cao, vi phạm trong hoạt động tu bổ di tích đã giảm hẳn so với những năm trước đây, các vi phạm được xử lý triệt để. Hệ thống pháp lý hiện hành về cơ bản đã tạo ra cơ chế để gắn kết bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể với phát triển kinh tế - xã hội và thu hút du lịch.

Về kết quả hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa với việc kiểm kê, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể đã góp phần nhận diện giá trị của kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú, đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, nhờ nhận diện được hiện trạng , sức sống của di sản để triển khai kịp thời các đề án/dự án báo về và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể đã ngăn chặn nguy cơ mai một, thất truyền, góp phần tích cực trong việc bào vệ bản sắc văn hóa dân tộc người.  Việc UNESCO ghi danh di sản văn hóa thế giới, các di tích danh lam thắng cảnh gắn với di sản văn hóa phi vật thể sau khi được xếp hạng, vinh danh đã ngày càng trở thành điểm du lịch hấp dẫn, thu hút đông đảo khách du lịch trong nước và quốc tế, góp phần nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở và phát triển kinh tế - xã hội cộng đồng cư dân tại địa phương.

Các bảo tàng tiếp tục được đổi mới về phương thức hoạt động, theo hướng tăng cường hiện vật gốc và ứng dụng thành tựu của khoa học kỹ thuật để làm phong phú và hấp dẫn nội dung trưng bày, đổi mới hình thức phục vụ công chúng; xây dựng các phòng giáo dục và chương trình giáo dục dành riêng cho học sinh phổ thông; chủ động kết hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức thường xuyên các cuộc trưng bày chuyên đề; kết hợp với việc trình diễn, giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể tại bảo tàng, nhằm thực hiện tốt công tác giáo dục truyền thống nâng cao văn hóa, khoa học cho công chúng, đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh, đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.

Trong hoạt động hợp tác quốc tế, thời gian qua, Việt Nam đã khẳng định là một trong những thành viên tham gia tích cực quá trình xây dựng, thực hiện các điều ước, thỏa thuận quốc tế giữa Việt Nam và các quốc gia, tổ chức quốc tế về văn hóa và di sản văn hóa, cụ thể: Hợp tác với UNESCO đã ngày càng được tăng cường, mang lại hiệu quả tích cực: Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thành viên tại các Công ước liên quan; Đảm nhiệm một số vị trí quan trọng trong cơ chế hợp tác UNESCO. Đồng thời, Việt Nam và UNESCO đã đẩy mạnh hợp tác tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo liên quan đến di sản và phát triển bền vững; đề nghị UNESCO hỗ trợ bảo tồn di sản trong trường hợp khẩn cấp, cử chuyên gia tham dự các hoạt động trao đổi kinh nghiệm, các khóa học ngắn hạn và dài hạn về bảo tồn và quản lý di sản…; Chủ động tham gia, thể hiện vai trò tích cực tại các tổ chức quốc tế về văn hóa và di sản văn hóa như: ICOM, ICOMOS, ICCROM,...

Bên cạnh hợp tác quốc tế với UNESCO, Việt Nam tham gia các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể với nhiều nước, tổ chức khác nhau như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, các nước ASEAN… Về hợp tác trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa, nhiều cuộc trưng bày, triển lãm lớn về di sản văn hóa Việt Nam đã được tổ chức ở các quốc gia trên thế giới; công tác xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích đã đạt được những hiệu quả tích cực, đã huy động được nguồn vốn không nhỏ từ các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp, cộng đồng và nguồn vốn viện trợ của UNESCO, các tổ chức Chính phủ, phi chính phủ cho bảo vệ, tu bổ, tôn tạo và phục hồi di tích. Theo số liệu thống kê từ các địa phương, giai đoạn 2010 đến nay, nguồn xã hội hóa cho tu bổ, tôn tạo di tích lên tới hàng nghìn tỷ đồng.

Công tác xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tíc đã đạt được những hiệu quả tích cực, huy động được nguồn vốn không nhỏ từ các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp, cộng đồng và nguồn vốn viện trợ của UNESCO, các tổ chức Chính phủ, phi Chính phủ cho bảo vệ, tu bổ, tôn tạo và phục hồi di tích…

Những tồn tại, hạn chế trong tổ chức thực hiện Luật Di sản văn hóa, cũng được nêu rõ. Đó là: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa ngày càng được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu đồng bộ, chưa xử lý được đầy đủ những phát sinh, vướng mắc trong thực tiễn quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Nguồn nhân lực quản lý di sản văn hóa còn chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn. Công tác đào tạo về bảo tồn, tu bổ di tích chỉ mới bắt đầu ở một số trường đại học, chưa được đào tạo chuyên sâu. Nguồn kinh phí đầu tư cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa nhìn chung còn thấp, vì thế không đủ nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ. Nhận thức về di sản văn hóa chưa thật sự sâu sắc và toàn diện, việc chấp hành quy định pháp luật trong bảo vệ di sản văn hóa, vẫn còn diễn ra tình trạng nhiều nơi còn lúng túng. Về phân cấp quản lý di sản văn hóa, mặc dù phân cấp cho các địa phương trong quản lý di sản chưa được khoa học, cụ thể, rõ ràng là nguyên nhân gây nên một số tồn tại trong công tác bảo vệ phát huy giá trị di sản văn hóa. Việc tuyên truyền, quảng bá di sản văn hóa chưa đạt được hiệu quả cao, nhiều nơi chưa thực sự quan tâm sau khi di sản được xếp hạng, ghi danh để có thể nâng cao giá trị vật chất và tinh thần của nhân dân, đồng thời phát triển kinh tế, thu hút du lịch. Nguồn nhân lực quản lý di sản văn hóa còn chưa tương xứng với cơ cấu phát triển ngành trong thời tới cũng như đòi hỏi của xu thế cách mạng khoa học công nghệ 4.0.

6 nhóm nội dung được đề xuất nhằm hoàn thiện quy định Luật Di sản văn hóa: Thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về di sản văn hóa phù hợp với thực tiễn; 

Định hướng rõ về nguyên tắc, chính sách, biện pháp phát triển di sản văn hóa nhằm bảo đảm phát huy giá trị di sản trong xã hội hiện đại; Bổ sung các quy định nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc phát huy giá trị di sản trong từng lĩnh vực; Bổ sung quy định về quản lý nhà nước về di sản tư liệu; quy định ngành văn hóa thống nhất quản lý một số danh hiệu được UNESCO ghi danh; 

Quy định cụ thể hơn chính sách ưu đãi trong hoạt động tu bổ, phát huy giá trị di sản văn hóa, các hình thức xã hội hóa hoạt động tu bổ, phát huy giá trị của di tích; chuyển đổi sở hữu đối với các di sản thuộc sở hữu tư nhân (mua, bán, trao tặng); chính sách bảo vệ và phát triển di sản văn hóa phi vật thể, tiếng nói, chữ viết của các dân tộc ở Việt Nam; bảo tồn, phát huy dân ca, dân vũ, dân nhạc truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số; chính sách, biện pháp nhằm duy trì và phát huy giá trị văn hóa của các lễ hội truyền thống; bài trừ các hủ tục và chống các biểu hiện tiêu cực, thương mại hóa trong tổ chức và hoạt động lễ hội; 

Hoàn thiện các quy định về di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thông qua việc quy định cụ thể chế độ bảo vệ, bảo quản đối với bảo vật quốc gia; thủ tục cho mượn hiện vật để trưng bày, triển lãm, nghiên cứu hoặc bảo quản ở trong nước; thủ tục mua hiện vật (trong nước và hồi hương cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài); thủ tục mượn/nhập khẩu di vật, cổ vật để trưng bày, triển lãm; cơ chế, chính sách khuyến khích việc giao nộp di vật, cổ vật được phát hiện và đăng ký di vật, cổ vật thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân với cơ quan nhà nước có thẩm quyền...; 

Bổ sung chức năng giáo dục của bảo tàng; xác định rõ tính đặc thù để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hệ thống bảo tàng ngoài công lập; quy định cụ thể về tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung, quy trình cung cấp dịch vụ và định mức kinh tế kỹ thuật, quy định giao Bộ VHTTDL thẩm quyền thẩm định đối với các dự án xây dựng, cải tạo, nâng cấp công trình, dự án trưng bày nội thất, ngoài trời của bảo tàng công lập... Quy định cụ thể hơn điều kiện thành lập bảo tàng; đơn giản hóa thủ tục thành lập/cấp giấp phép hoạt động bảo tàng cấp tỉnh, cấp huyện, bảo tàng ngoài công lập cũng như quy trình tổ chức trưng bày di vật, cổ vật ở nước ngoài; 

Bổ sung quy định về hoạt động liên quan đến “Quỹ bảo tồn di sản văn hóa” để huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc.

Xây dựng luật cần phải được nhìn ở 2 góc độ

Phát biểu tại Hội nghị-Hội thảo, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng nhấn mạnh đây là thời điểm thích hợp để Bộ cùng các địa phương tiến hành tổng kết, đưa ra ý kiến đóng góp nhằm xây dựng báo cáo đề xuất để sửa đổi Luật Di sản văn hóa trong thời gian tới, Theo Bộ trưởng, luật là sự thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chính vì thế phải nhận thức đúng, đủ, sâu, quan điểm mới của Đảng về vấn đề di sản, kế thừa các nghị quyết chuyên đề của Trung ương, từ đó làm sâu sắc hơn những luận điểm cơ bản mà các nghị quyết đã đề cập. Di sản văn hóa đã được xác định là tài sản vô giá của dân tộc, nhưng phải được gắn kết với cộng đồng, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, là cơ sở sáng tạo ra các giá trị mới để giao lưu văn hóa…

Bộ trưởng cho rằng, thực tiễn bao giờ cũng vận hành và đi trước, pháp luật phải làm sao bắt kịp với thực tiễn của cuộc sống. Vì vậy, việc xây dựng luật cần phải được nhìn ở 2 góc độ, đó là làm sao để bảo vệ được di tích di sản mà quan trọng hơn là phát huy giá trị của di tích và di sản. Bảo vệ không có nghĩa là bó buộc lại, còn phát huy thì phải làm sao để các hệ di tích, di sản này được tỏa sáng, đóng vai trò dẫn dắt, quảng bá và là thương hiệu của chúng ta đối với bạn bè quốc tế, là nơi khẳng định hồn cốt của dân tộc.

Đề cập đến vấn đề nguồn lực để bảo vệ, phát huy giá trị di sản và việc phân cấp quản lý giữa Bộ với các địa phương, Bộ trưởng cho rằng bài toán đặt ra là phân cấp cái gì, giữ lại cái gì để chúng ta dần chuyển hướng từ cơ quan đi làm văn hóa sang làm quản lý nhà nước về văn hóa bằng công cụ pháp luật hiệu quả, sát thực tiễn… Bên cạnh đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa cũng phải đảm bảo tạo ra sự tương thích với các bộ luật khác để tạo động lực, sức mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước…

Tại Hội nghị - Hội thảo, tham luận của các đại biểu đã nêu nhiều vấn đề thực tế đang tồn tại, chia sẻ kinh nghiệm quản lý di sản, và đưa ra đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật Di sản văn hóa phù hợp với thực tiễn. 

Cục trưởng Cục Di sản (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Lê Thị Thu Hiền cho biết việc thực thi Luật Di sản văn hóa cũng đã bộc lộ những bất cập, cần sửa đổi cho phù hợp thực tiễn bởi hệ thống văn bản pháp luật về di sản văn hóa vẫn còn thiếu đồng bộ, một số nội dung vẫn bị chồng chéo bởi các luật khác, nhiều vấn đề phát sinh từ thực tiễn chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển chưa được xử lý hài hòa. Việc bảo tồn chưa được ưu tiên và coi trọng, tại các khu di sản, việc phát triển du lịch một cách mạnh mẽ trong khi chưa có đủ cơ sở hạ tầng, chưa có những công cụ pháp lý hữu hiệu để điều chỉnh các hành vi liên quan đã làm cho di sản có nguy cơ bị ô nhiễm do quá tải, nhất là trong mùa lễ

Việc tuyên truyền, quảng bá và xây dựng các sản phẩm du lịch gắn trực tiếp với từng khu di sản, thể hiện và phát huy được nét đặc thù của địa phương ở một số khu di sản chưa đạt hiệu quả cao. Công tác truyền thông, xúc tiến du lịch và tổ chức các hoạt động dịch vụ tại một số khu di sản còn hạn chế, thậm chí còn làm méo mó di sản, ảnh hưởng đến thương hiệu và sức thu hút khách tham quan. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia chưa bắt kịp được yêu cầu.

Bên cạnh đó, quan niệm của một số cư dân làng xã, các di tích gắn với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo (thờ Thần, Phật, Thánh và Mẫu) cũng như các lễ hội văn hóa truyền thống cần được làm mới, thật khang trang và sang trọng. Do đó, có xu hướng muốn thay thế các cấu kiện kiến trúc, thậm chí cả đồ thờ tự trong di tích hoặc hiện tượng sân khấu hóa và thương mại hóa hoạt động lễ hội…

Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, sửa đổi Luật Di sản Văn hóa cần lấp những khoảng trống đang có, đồng thời phải đánh thức trong mỗi con người một ý thức quan trọng về di sản, là niềm tự hào và tự nguyện tham gia bảo vệ, phát huy.

GS Nguyễn Anh Trí (ĐBQH Khóa XV, người sáng lập Trung tâm, công viên và bảo tàng di sản các nhà khoa học Việt Nam) lưu ý, cần chú trọng khía cạnh di sản phải tạo được những hiệu quả kinh tế. Điều quan trọng là làm cho các di sản phát huy và lan tỏa giá trị, mang hiệu quả kinh tế nhưng vẫn cần phải bảo tồn nguyên vẹn, không bị xâm phạm giá trị nguyên gốc.

Cũng tại hội thảo, TS Lê Thị Minh Lý, Phó Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam chia sẻ, mỗi Bảo tàng phải là cơ quan nghiên cứu khoa học trước khi là một thiết chế văn hóa, trước khi muốn đẩy mạnh số hóa, chuyển đổi số. Chức năng giáo dục phải được đặt lên hàng đầu. Từ đó, bà đề nghị sửa lại và bổ sung một số nội dung trong định nghĩa về Bảo tàng trong Luật Di sản Văn hóa sửa đổi tới đây.

Tổng hợp các ý kiến tại Hội nghị - Hội thảo Tổng kết thực hiện Luật Di sản văn hóa, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hoàng Đạo Cương cho biết: Bộ VHTTDL đã nhận được nhiều ý kiến, kiến nghị của các Bộ, ngành cũng như ý kiến của 63 tỉnh, thành phố. Các kiến nghị chung về các lĩnh vực: di sản văn hóa; di tích, di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và bảo tàng, di vật, bảo vật quốc gia; các hoạt động nghiệp vụ bảo vệ và phát huy di tích; bảo quản, tu bổ di tích; thăm dò khai quật khảo cổ học… Từ những ý kiến này sẽ kiến nghị Bộ trưởng giao Cục Di sản Văn hóa phối hợp với Vụ Pháp chế và các đơn vị liên quan hoàn thiện báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Luật Di sản Văn hóa, tham mưu lãnh đạo Bộ có Tờ trình Chính phủ, Quốc hội cho phép xây dựng Luật Di sản Văn hóa (sửa đổi) trong thời gian tới, đảm bảo phù hợp với thực tiễn quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam, vì mục tiêu phát triển bền vững.

PT (t/h)