
Trong thời gian qua, công tác người khuyết tật nói chung và thể thao người khuyết tật nói riêng luôn được Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng và toàn xã hội quan tâm. Nhiều chủ trương, chính sách chăm lo, bảo đảm quyền, phát huy vai trò của người khuyết tật được triển khai kịp thời, có hiệu quả, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội và phát triển bền vững, là nhân tố quyết định cho bước tiến của phong trào thể thao người khuyết tật từ việc thể chế hoá chính sách đến huy động nguồn lực nhà nước, xã hội và hợp tác, hội nhập quốc tế.
Có thể khẳng định, trong những năm qua, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng được thể hiện qua các Văn kiện Đại hội, Chỉ thị, Nghị quyết, Kết luận như: Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ “thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”; Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 1/11/2019 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người khuyết tật; Kết luận số 70-KL/TW, ngày 31/01/2024 của Bộ Chính trị về phát triển thể dục, thể thao trong giai đoạn mới. Đây là nền tảng chính trị - pháp lý quan trọng để phát triển mạnh mẽ thể thao người khuyết tật, đưa phong trào vươn tầm khu vực, châu lục và thế giới.

Một số thành tích nổi bật của Thể thao Người khuyết tật Việt Nam thời gian qua
Dưới sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Thể thao Người khuyết tật đã có nhiều thành tựu trong chiều dài phát triển 30 năm qua. Từ khi thành lập (ngày 11/9/1995) đến nay, Ủy ban Paralympic Việt Nam đã phát triển phong trào thể thao người khuyết tật tới 45/63 tỉnh, thành phố, thu hút hàng chục nghìn người khuyết tật tham gia tập luyện thường xuyên (trên 35.000 người khuyết tật). Mạng lưới câu lạc bộ thể thao người khuyết tật mở rộng đến 490 cơ sở với các môn thể thao được tổ chức đa dạng, như: Điền kinh, Bơi, Cử tạ, Cầu lông, Cờ vua, Bóng bàn, Judo khiếm thị, Bắn cung, Quần vợt xe lăn, Boccia, Đấu kiếm xe lăn, Bóng đá khiếm thị 5 người, Pickleball, Khiêu vũ thể thao, Thể thao điện tử, Yoga,...

Hoạt động thể thao xã hội hóa có nhiều khởi sắc, các cấp ủy Đảng, chính quyền, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các đoàn thể đã cùng chung tay góp sức với thể thao người khuyết tật Việt Nam được thể hiện qua các sự kiện ngày kỷ niệm ngày người khuyết tật Việt Nam (18/4), ngày kỷ niệm quốc tế (3/12), ASEAN Para Games 11 và 12; ASIAN Para Games 4. Nhiều tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đồng tâm hiệp lực cùng chăm lo tới hoạt động thể dục thể thao của người khuyết tật...

Thành tích thi đấu quốc tế của Thể thao Người khuyết tật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn. Tại Paralympic Rio năm 2016, giành được 1 huy chương vàng, 1 huy chương bạc, 2 huy chương đồng; Paralympic Tokyo 2020, giành được 1 huy chương bạc; Paralympic Paris 2024, giành được 1 huy chương đồng; ASEAN Para Games 2023 giành được 66 huy chương vàng, 59 huy chương bạc, 78 huy chương đồng, phá 19 kỷ lục Đại hội. Những thành tích này không chỉ nâng tầm Thể thao Người khuyết tật Việt Nam mà còn góp phần khẳng định hình ảnh một đất nước nhân văn, vươn lên mạnh mẽ bất chấp khó khăn. Nhiều vận động viên người khuyết tật đã trở thành biểu tượng thể hiện ý chí, vươn lên, như: Lê Văn Công (môn Cử tạ), Châu Hoàng Tuyết Loan (Cử tạ), Nguyễn Thị Hải (Điền kinh), Trịnh Thị Bích Như (Bơi),… Các vận động viên vừa mang vinh quang về cho Tổ quốc, vừa truyền cảm hứng sống tích cực cho cộng đồng.

Phong trào tuy có phát triển hơn các thời kỳ trước đây, song một số tỉnh, thành phố vẫn coi Thể thao Người khuyết tật là hoạt động từ thiện, chưa thấy rõ lợi ích của thể thao làm thay đổi cuộc sống của người khuyết tật góp phần làm ổn định xã hội. Người khuyết tật giống như người bình thường cũng có những khát vọng sống, ước ao chinh phục đỉnh cao, luôn muốn thể hiện mình không phải là người khuyết tật; cơ sở vật chất cho tập luyện còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ,...; thể thao thành tích cao ở môn thể thao trọng điểm trong giai đoạn vừa qua một số vận động viên gặp nhiều chấn thương trong quá trình tập luyện và thi đấu, chưa điều trị được dứt điểm chấn thương nên ảnh hưởng đến thành tích trong thi đấu của các vận động viên.
Đội ngũ huấn luyện viên, cộng tác viên còn thiếu, năng lực tiếp cận với hoạt động của người khuyết tật còn hạn chế; huấn luyện viên có trình độ huấn luyện nâng cao còn thiếu, chưa đáp ứng được với thực tế...
Để phát huy trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo các cấp trong việc định hướng phát triển thể thao người khuyết tật để đưa thể thao người khuyết tật vươn mình, hoà nhập và phát triển, theo chúng tôi, trong thời gian tới, cần tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp chính như sau:
Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức quán triệt, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng Chỉ thị số 39-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người khuyết tật; Quyết định số 753/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW của Ban Bí thư và Quyết định số 1190/QĐ-TTg, ngày 08/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2021-2030; Kết luận số 70-KL/TW, ngày 31/01/2024 của Bộ Chính trị về phát triển thể dục, thể thao trong giai đoạn mới; Quyết định số 1189/QĐ-TTg, ngày 15/10/2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển thể dục thể thao đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Luật Người khuyết tật,… coi công tác người khuyết, phát triển thể thao người khuyết tật là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, cần được quan tâm.
Hai là, tiếp tục cụ thể hóa, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các cấp, các ngành, các địa phương về công tác người khuyết tật bảo đảm đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn điều chỉnh chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng tương xứng; bảo đảm bình đẳng giữa vận động viên người khuyết tật và vận động viên bình thường.
Ba là, đầu tư hạ tầng và nhân lực, quan tâm xây dựng các cơ sở tập luyện cho người khuyết tật trong cộng đồng để họ có thể tham gia tập luyện thường xuyên nâng cao sức khoẻ và hoà nhập cộng đồng; Quan tâm đầu tư trang thiết bị tập luyện cho các vận động viên khuyết tật tại trung tâm đào tạo vận động viên.
Bốn là, tích cực huy động, vận động các nguồn lực xã hội cho công tác phát triển thể thao người khuyết tật để chăm lo sức khỏe cho người khuyết tật; khuyến khích sự tham gia của khu vực ngoài nhà nước đầu tư các mô hình phi lợi nhuận đầu tư cho thể thao người khuyết tật; huy động doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân tài trợ; phát triển quỹ hỗ trợ thể thao người khuyết tật.
Năm là, tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, tôn vinh các huấn luyện viên, vận động viên người khuyết tật tiêu biểu, nhằm lan tỏa thông điệp “khát vọng vươn lên”.
Sáu là, mở rộng hợp tác quốc tế: học hỏi mô hình tiên tiến, tiếp nhận công nghệ huấn luyện và phục hồi chức năng hiện đại tại các nước phát triển để chăm lo cho người khuyết tật nói chung và Thể thao Người khuyết tật nói riêng,...

Có thể nói, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý, điều hành có hiệu quả của Nhà nước, cùng với sự chung tay của toàn xã hội đã đưa thể thao người khuyết tật Việt Nam từ những bước đi ban đầu trở thành một phong trào mạnh mẽ, đóng góp vào thành tích thể thao quốc gia và khẳng định vị thế trên đấu trường quốc tế. Với nền tảng vững chắc, sự quyết tâm của hệ thống chính trị và khát vọng vươn lên của chính những người khuyết tật, tin tưởng rằng trong tương lai không xa, thể thao người khuyết tật Việt Nam sẽ đạt nhiều đỉnh cao mới, góp phần xây dựng một Việt Nam giàu đẹp, văn minh và hạnh phúc cho mọi người dân. Tuy nhiên, để biến khát vọng thành thực tế bền vững, cần xử lý đồng thời nhiều vấn đề: cơ chế chính sách đặc thù, ổn định nguồn lực cho vận động viên, đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng nhân lực chuyên môn và cơ chế xã hội hoá bền vững…