
Thể dục thể thao là một trong những ngành giàu truyền thống cách mạng của đất nước ta. Lịch sử hình thành và phát triển của ngành Thể dục thể thao luôn gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong tiến trình phát triển đất nước, TDTT không chỉ là hoạt động rèn luyện sức khỏe, nâng cao thể lực mà còn là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển văn hóa - xã hội, góp phần thúc đẩy du lịch và quảng bá hình ảnh quốc gia. Việc nâng cao hiệu quả công tác TDTT chính là nền tảng để ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch phát triển bền vững, hài hòa giữa mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nền TDTT cách mạng được xây dựng theo quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phục vụ nhiệm vụ cách mạng, vì lợi ích Nhân dân, phong trào “Khỏe vì nước”, “Khỏe để kháng chiến kiến quốc” là cốt lõi của TDTT thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Cho dù chiến tranh diễn ra ác liệt, cuộc sống của đồng bào, cán bộ và chiến sĩ hết sức gian khổ, thiếu thốn, các môn thể dục, võ thuật và thể thao quần chúng vẫn được tổ chức tập luyện, thi đấu thường xuyên trên các chiến khu, chiến trường toàn quốc, nhằm nâng cao tinh thần lạc quan cách mạng, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, góp phần tích cực vào công cuộc “kháng chiến, kiến quốc” của Nhân dân ta.
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành được thắng lợi, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bắt đầu chuyển sang thời kỳ khôi phục kinh tế và quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong khi miền Nam đang tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc chống đế quốc Mỹ xâm lược. Tại miền Bắc, các phong trào “Rèn luyện thân thể mùa Xuân”, “Thể dục vệ sinh yêu nước”, “Chạy, nhảy, bơi, bắn, võ”, “Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” được đông đảo dân chúng, nhất là thanh niên hưởng ứng tập luyện sôi nổi; nhiều cuộc thi đấu thể thao được tổ chức và diễn ra sôi nổi.
Công tác TDTT thời kỳ này cũng đã góp phần tích cực phục vụ đường lối đối ngoại của Đảng và Chính phủ. Các quan hệ quốc tế về TDTT ở miền Bắc đã bám sát và phục vụ các nhiệm vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước, thắt chặt quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia; đoàn kết hợp tác với các nước Á, Phi, Mỹ La tinh, đoàn kết tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Song song với việc phát triển phong trào để phục vụ công tác sản xuất và chiến đấu, thể thao Việt Nam đã tuyển chọn những vận động viên xuất sắc để tham dự một số sự kiện thể thao quốc tế - tiêu biểu là Đại hội thể thao GANEFO, giải thể thao quân đội SKDA và giành những thành tích quan trọng. Tại miền Nam, các hoạt động TDTT trong thời kỳ này đã góp phần nâng cao sức khỏe của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Từ sau ngày đất nước thống nhất, ngành Thể dục thể thao có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Phong trào TDTT cho mọi người được triển khai sâu, rộng trong toàn quốc, gắn với cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, thu hút người dân thuộc mọi lứa tuổi, thành phần tham gia luyện tập. Thể thao thành tích cao tích cực hội nhập quốc tế, đạt nhiều thành tích nổi bật tại các đại hội thể thao khu vực, châu lục và thế giới. Việt Nam đã đăng cai và tổ chức thành công nhiều sự kiện thể thao quốc tế có quy mô lớn, như Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 22 năm 2003, Đại hội Thể thao châu Á trong nhà lần thứ 3 năm 2009, Đại hội Thể thao bãi biển châu Á lần thứ 5 năm 2016, Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 năm 2022 và nhiều sự kiện thể thao quốc tế quan trọng khác.
Nhìn lại bức tranh tổng thể trên các mặt công tác của ngành Thể dục thể thao trong 79 năm qua theo từng giai đoạn lịch sử cách mạng đã có nhiều nỗ lực và đóng góp quan trọng, khẳng định được vị trí và giá trị đích thực của sự nghiệp TDTT đối với xã hội, đời sống Nhân dân.
Trước hết, đó là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân cường thì Quốc thịnh”, Đảng ta đã đặt sự nghiệp TDTT là một công tác cách mạng và phát triển trong các văn kiện của Đảng, các chỉ thị, nghị quyết về công tác TDTT của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Ở góc độ quản lý Nhà nước, việc Quốc hội thông qua Luật TDTT tạo hành lang pháp lý để tăng cường vai trò quản lý gắn liền với pháp luật là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế và cơ chế quản lý cũng như thúc đẩy phát triển sự nghiệp TDTT. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo công tác TDTT và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sự nghiệp TDTT theo quan điểm, đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh. Với các quyết định thành lập cơ quan quản lý thể thao Nhà nước qua từng giai đoạn cách mạng, việc ban hành các quyết định, chính sách phát triển TDTT, các chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách xã hội hóa về TDTT, chính sách ưu đãi đối với các vận động viên thể thao thành tích cao… đã góp phần phát triển TDTT, tạo điều kiện cho ngành Thể dục thể thao phát huy vai trò, vị trí của mình trong việc huy động sự tham gia tích cực của Nhân dân rèn luyện TDTT, nâng cao sức khỏe, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao thành tích thể thao để hội nhập và nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ hai, nhận thức của Nhân dân về vị trí, vai trò của TDTT đối với việc nâng cao sức khỏe, đặc biệt nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị, xã hội về trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác TDTT đã được nâng lên rõ rệt. Nhờ đó, việc quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và phát triển phong trào TDTT đã được chú trọng, quan tâm tốt hơn.
Thứ ba, cần khẳng định sự tham gia ngày càng tự giác và tích cực của các tầng lớp nhân dân trong các hoạt động TDTT. Chính Nhân dân chứ không phải ai khác, vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển sự nghiệp TDTT, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mỗi người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, “Dân cường thì Quốc thịnh”. Chúng ta tự hào là một dân tộc có tinh thần thượng võ từ ngàn xưa, luôn nuôi dưỡng khát vọng cống hiến và khẳng định ý chí chiến thắng. Chính những giá trị đó đã trở thành nền tảng vững chắc để TDTT Việt Nam không ngừng phát triển, đạt nhiều thành tựu và ngày càng khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Thứ tư, có được những thành tựu hôm nay, chúng ta phải ghi nhận sự phấn đấu, rèn luyện gian khổ của các thế hệ cán bộ, huấn luyện viên, vận động viên, trọng tài ngành Thể dục thể thao trong các thời kỳ cách mạng trước đây và hiện nay. Mỗi khi lá cờ Tổ quốc tung bay và quốc ca Việt Nam vang lên tại các đấu trường quốc tế, chúng ta đều hạnh phúc, thậm chí rơi nước mắt vì niềm tự hào dân tộc. Và để có được vinh quang này, chúng ta cần phải ghi nhận và đánh giá cao sự phấn đấu, hy sinh của họ.
Thứ năm, bản thân hoạt động TDTT là một hoạt động mang tính phổ biến và cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành Thể dục thể thao với các bộ, ngành, các đoàn thể, địa phương. Không có sự phối hợp và tạo điều kiện giúp đỡ của các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, phong trào TDTT khó có được sức mạnh để phát triển. Kinh nghiệm thực tiễn 79 năm xây dựng phát triển của nền TDTT cách mạng đã và sẽ còn tiếp tục cần sự phối hợp chặt chẽ và cần sự giúp đỡ quan trọng này.
Thứ sáu, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực TDTT tiếp tục được tăng cường và mở rộng theo hướng thiết thực và hiệu quả, vị thế của thể thao Việt Nam được nâng cao, nhất là ở khu vực và châu lục. Trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã đăng cai tổ chức thành công Đại hội Thể thao bãi biển châu Á lần thứ 5 tại Đà Nẵng (ASIAN Beach Games 2016), Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 năm 2022 (SEA Games 31) tại Hà Nội và 11 địa phương khu vực phía Bắc. Đặc biệt, SEA Games 31 là kỳ Đại hội thể thao được tổ chức rất thành công trong bối cảnh ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp đối với bạn bè quốc tế.
Cùng với đó, Thể thao người khuyết tật Việt Nam cũng từng bước phát triển. Kể từ năm 1989, lần đầu tiên tham gia đấu trường thế giới đến nay, các vận động viên người khuyết tật Việt Nam đã giành được nhiều huy chương tại các đấu trường khu vực, châu lục và thế giới. Nhiều gương mặt vận động viên đã làm rạng danh nền Thể thao Việt Nam trên các đấu trường quốc tế. Đặc biệt là tấm huy chương vàng của vận động viên Lê Văn Công (môn Cử tạ) tại Paralympic Rio 2016 đã giúp vị thế của Thể thao người khuyết tật Việt Nam ngày càng được khẳng định. Mạng lưới câu lạc bộ thể thao người khuyết tật mở rộng, đổi mới nội dung, môn tập luyện phong phú và đa dạng, gồm: Điền kinh, Bơi, Cử tạ, Cầu lông, cờ Vua, Bóng bàn, Judo khiếm thị, Bắn cung, Quần vợt xe lăn, Boccia, Đấu kiếm xe lăn, Bóng đá khiếm thị 5 người, Yoga, Khiêu vũ thể thao, Pickleball, Thể thao điện tử,... Thời gian qua, Ủy ban Paralympic Việt Nam đã tăng cường hợp tác quốc tế, giữ vững mối quan hệ với Ủy ban Paralympic Quốc tế (IPC), Ủy ban Paralympic châu Á (APC) và Liên đoàn Thể thao Người khuyết tật Đông Nam Á (APSF).

Bên cạnh đó, một trong những điểm mạnh để Thể thao Việt Nam đạt được những thành tích lớn trong những năm gần đây là kết quả của công tác xã hội hóa trong hoạt động thể thao mang lại. Trong khi đất nước còn nhiều khó khăn về kinh tế, nguồn ngân sách đầu tư cho thể thao còn hạn hẹp, công tác xã hội hóa thể thao đã phát huy tác dụng, nhiều chính sách ưu đãi xã hội hóa thể thao đã thu hút các doanh nghiệp, tư nhân đầu tư xây dựng cơ sở, trang thiết bị tập luyện TDTT, mở các câu lạc bộ thể thao để đào tạo, cung cấp nguồn lực cho thể thao quốc gia.
Để góp phần xây dựng ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch phát triển bền vững trong bối cảnh cả nước đang thực hiện tinh gọn bộ máy hành chính và vận hành chính quyền địa phương 2 cấp, định hướng phát triển TDTT trong thời gian tới như sau:
Bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Chú trọng nghiên cứu, thể chế hóa kịp thời các nội dung liên quan đến thể thao tại các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ. Đặc biệt, tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận số 70-KL/TW ngày 31/1/2024 của Bộ Chính trị về phát triển TDTT trong giai đoạn mới và Chiến lược phát triển TDTT Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện các đề án, quy hoạch, chiến lược… đã được phê duyệt và hoàn thiện Thông tư, Nghị định, chính sách, Chương trình phát triển các môn thể thao trọng điểm.
Đẩy mạnh phát triển TDTT cho mọi người: Khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân tham gia rèn luyện TDTT, gắn với Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”; xây dựng và duy trì các câu lạc bộ thể thao cơ sở, tổ, đội, nhóm thể thao tự phát tại khu dân cư, trường học, cơ quan, doanh nghiệp. Lồng ghép TDTT với các hoạt động văn hóa - xã hội khác để tạo sân chơi lành mạnh, nâng cao đời sống tinh thần cho Nhân dân. Tăng cường tổ chức các giải thể thao phong trào từ cơ sở đến cấp tỉnh/thành và Trung ương. Phát triển thể thao trường học và thể thao trong lực lượng vũ trang nhân dân. Đẩy mạnh công tác giáo dục thể chất và thể thao trường học, bảo đảm phát triển con người toàn diện. Phát triển TDTT trong lực lượng vũ trang, tăng cường rèn luyện thể lực, sức chiến đấu cho cán bộ, chiến sỹ, góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng toàn dân. Bảo tồn, phát triển các môn thể thao dân tộc, trò chơi dân gian, thể thao giải trí, thể thao mạo hiểm và các môn thể thao mới. Tăng cường các hoạt động thể dục, thể thao cho người khuyết tật, đào tạo lực lượng vận động viên thể thao người khuyết tật tham dự các đại hội, giải thi đấu thể thao quốc tế.
Phát triển thể thao thành tích cao theo hướng chuyên nghiệp và có trọng điểm: Tập trung đầu tư đào tạo vận động viên trẻ, tài năng, xây dựng lực lượng kế cận ổn định và bền vững. Định hướng phát triển các môn thể thao mũi nhọn, có thế mạnh tại địa phương; ưu tiên đầu tư cho các môn thể thao Olympic, ASIAD; Tăng cường hợp tác quốc tế, trao đổi huấn luyện viên, vận động viên, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số và y học thể thao. Hướng tới chuyên nghiệp hóa hoạt động thể thao, tạo điều kiện cho vận động viên được thi đấu, huấn luyện trong môi trường hiện đại, đạt chuẩn quốc tế.

Tăng cường nguồn lực đầu tư, phát triển TDTT: Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ cho phát triển thể dục, thể thao; tạo cơ chế khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư qua hình thức đầu tư trực tiếp, hợp tác công - tư, liên doanh, liên kết khai thác đất đai, công trình, tổ chức sự kiện thể thao. Ưu tiên đầu tư một số cơ sở trọng điểm về đào tạo, huấn luyện vận động viên đỉnh cao; quy hoạch và đầu tư xây dựng các công trình thể thao từ cấp xã đến cấp tỉnh, phù hợp với nhu cầu thực tiễn và điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương. Tận dụng hiệu quả các công trình công cộng, công viên, khu dân cư… để bố trí không gian luyện tập thể thao cho cộng đồng/Nhân dân.
Đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường chuyển đổi số trong TDTT: Xây dựng cơ sở dữ liệu số về TDTT, từ phong trào quần chúng đến thể thao thành tích cao. Ứng dụng khoa học công nghệ trong tổ chức giải đấu, tập huấn, tuyển chọn VĐV, quản lý thành tích, theo dõi sức khỏe vận động viên. Đẩy mạnh truyền thông số để lan tỏa giá trị và khơi dậy tinh thần thể thao trong cộng đồng, đặc biệt với giới trẻ.
Phát triển nguồn nhân lực TDTT có chất lượng, trình độ cao: Đổi mới, nâng cao chất lượng của cơ sở đào tạo cán bộ quản lý, huấn luyện viên, giáo viên thể dục thể thao; tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ huấn luyện viên, cán bộ quản lý TDTT có trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý và công nghệ; tăng cường hợp tác với các trường đào tạo TDTT, các tổ chức quốc tế để nâng cao năng lực chuyên môn và hội nhập quốc tế.
Việc định hướng phát triển TDTT trong thời gian tới cần được triển khai toàn diện, đồng bộ và linh hoạt, vừa chú trọng phát triển phong trào TDTT cho mọi người để nâng cao sức khỏe cộng đồng có định hướng phát triển thể thao thành tích cao, vừa thúc đẩy thể thao thành tích cao vươn tầm khu vực và quốc tế. Xã hội hóa mạnh mẽ đầu tư vào các thiết chế TDTT, nâng cao tầm vóc, thể lực người Việt Nam, bảo tồn và phát huy các môn thể thao dân tộc truyền thống, đồng thời mở rộng các loại hình TDTT cho các nhóm đối tượng đặc thù như người cao tuổi, người khuyết tật… Trong đó, sự phối hợp giữa Nhà nước, Nhân dân và doanh nghiệp, cùng với đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sẽ là động lực quan trọng để xây dựng nền TDTT hiện đại, chuyên nghiệp và bền vững.