Đây là một bước đi chiến lược và cần thiết để đảm bảo rằng, văn hóa Việt Nam không chỉ được lưu giữ mà còn phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên số.
Theo Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), công nghệ số giúp lưu trữ và bảo tồn các tài nguyên văn hóa vật thể (hiện vật, kiến trúc) và phi vật thể (lễ hội, nghệ thuật biểu diễn) dưới dạng dữ liệu kỹ thuật số, bảo vệ chúng khỏi nguy cơ mai một hoặc bị hư hỏng theo thời gian. Bên cạnh đó, chuyển đổi số giúp nâng cao khả năng tiếp cận và quảng bá văn hóa cũng như cải thiện và hiện đại hóa quy trình quản lý văn hóa, thông qua ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data), giúp quản lý và phân bổ nguồn tài nguyên văn hóa hiệu quả hơn, là cơ sở cho các quyết định quản lý kịp thời và phù hợp hơn.
Chuyển đổi số cũng góp phần tạo ra môi trường tương tác, giúp người dân dễ dàng tham gia sáng tạo và lan tỏa giá trị văn hóa thông qua các nền tảng trực tuyến, đặc biệt là giới trẻ, đồng thời giúp quảng bá văn hóa Việt Nam một cách thường xuyên, nhanh chóng, cập nhật trên trường quốc tế. Đối với khu vực công và tư, quản lý và kinh doanh văn hóa, thì hiệu quả lâu dài của việc chuyển đổi số này sẽ là sự tiết giảm chi phí, làm việc thông minh, nâng cao hiệu suất làm việc và hiệu quả quản lý cũng như thúc đẩy sự tăng lên về doanh thu của doanh nghiệp.
Cùng với chuyển đổi số trong những lĩnh vực khác của xã hội, chuyển đổi số trong văn hóa sẽ góp phần tạo dựng nên một xã hội số với một nền kinh tế số mạnh mẽ và năng động. Đây không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết để bảo tồn di sản văn hoá và phát huy bản sắc dân tộc, mà còn là cơ hội để đưa văn hóa Việt Nam hòa nhập mạnh mẽ vào dòng chảy văn minh toàn cầu.
Việc thực hiện thành công chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa đòi hỏi sự đồng bộ trong chính sách, công nghệ, nguồn lực, và sự tham gia của cả mọi cá nhân, cộng đồng, tổ chức, đơn vị. Bằng cách xây dựng một hệ thống thể chế, chính sách cho phát triển văn hóa mạnh mẽ, toàn diện, Việt Nam sẽ xây dựng nền văn hóa không chỉ là nền tảng của xã hội mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển, mang đến cho dân tộc “sức mạnh mềm” để đứng vững trong kỷ nguyên mới. Thể chế, chính sách sẽ là đôi cánh giúp văn hóa vươn cao, khẳng định vị thế trên trường quốc tế và là kim chỉ nam dẫn đường cho dân tộc đi tới tương lai.
Trong kỷ nguyên mới, văn hóa chính là động lực phát triển bền vững của đất nước. Các giải pháp tập trung vào bảo tồn, đổi mới, sáng tạo và hội nhập văn hóa sẽ giúp Việt Nam không chỉ giữ gìn được bản sắc dân tộc mà còn vươn mình ra thế giới. Những nỗ lực này sẽ góp phần xây dựng một xã hội văn minh, giàu bản sắc và đầy sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của kỷ nguyên mới.
Thách thức về ứng dụng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là một xu thế lớn, tác động đến toàn bộ xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật. Xét riêng về công nghệ thì trong lĩnh vực văn hóa mới chỉ dừng lại ở việc tiếp nhận những công nghệ trung bình của thế giới. Việc nghiên cứu và phát triển những công nghệ mới và hiện đại khó thực hiện được do đặc thù của ngành chưa phù hợp cho việc phát triển những công nghệ như vậy. Đồng thời, việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ cũng như nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới cũng gặp khó khăn do số lượng và chất lượng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ của ngành còn hạn chế. Nguồn tài chính hạn hẹp cho khoa học và công nghệ trong lĩnh vực văn hóa là một trở ngại cho việc thực hiện những hoạt động công nghệ như vậy. Hoạt động nghiên cứu khoa học với những dự án, chương trình lớn với quy mô dài hạn cũng không thật sự đủ nguồn lực tài chính để thực hiện do chi ngân sách sự nghiệp cho khoa học và công nghệ giảm dần từ nhiều năm qua và chưa bao giờ đạt được mức 2% GDP như quy định của pháp luật. Đây là vấn đề khó giải quyết và sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển công nghiệp văn hóa trong tương lai.
Cùng với vấn đề tăng cường chuyển đổi số, lĩnh vực văn hóa cần mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế và quảng bá mạnh mẽ văn hóa Việt Nam ra thế giới. Khi thế giới trở nên “phẳng” hơn trong thời đại công nghệ, việc hội nhập không chỉ giúp Việt Nam tiếp thu những tinh hoa văn hóa toàn cầu mà còn là cơ hội để chúng ta giới thiệu nét đặc sắc của mình với bạn bè quốc tế trong kỷ nguyên mới. Chủ động mở rộng, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Khuyến khích các cá nhân tổ chức tham gia tích cực vào các hoạt động hợp tác quốc tế với tư cách là thành viên của các mạng lưới quốc tế về văn hóa, nghệ thuật.
Đổi mới hình thức triển khai công tác ngoại giao văn hoá trong và ngoài nước, tích cực ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đáp ứng mục tiêu: Thúc đẩy quan hệ, hội nhập văn hóa, quảng bá đất nước, qua đó đóng góp vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời chủ động bảo vệ các giá trị, nền tảng tư tưởng của Đảng, thành quả của đất nước trong kỷ nguyên mới. Văn hóa Việt Nam đã hội nhập với văn hóa thế giới từ hơn 3 thập niên qua với mức độ ngày càng sâu rộng qua quá trình giao lưu và tiếp xúc với văn hóa thế giới...
Để giải quyết vấn đề này, việc quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới cần được thực hiện mạnh mẽ hơn giai đoạn trước qua mọi kênh phù hợp như hệ thống truyền thông bao gồm truyền hình, phát thanh và Internet cần được tiếp tục đẩy mạnh. Việc thúc đẩy giao lưu hợp tác quốc tế nhằm giới thiệu văn hóa Việt Nam vẫn cần tiếp tục được thực hiện, bên cạnh đó, cần xây dựng thêm một số Trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài bên cạnh 2 trung tâm ở Lào và Pháp để việc quảng bá và giới thiệu văn hóa nhanh chóng và có hiệu quả hơn.
Tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, chính sách
Trong kỷ nguyên mới, khi đất nước Việt Nam đang bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển mạnh mẽ, lĩnh vực văn hóa đóng vai trò rất quan trọng trong việc gìn giữ bản sắc dân tộc, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Tham luận tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2024 và triển khai nhiệm vụ trọng tâm ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch năm 2025, theo Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, để văn hóa thực sự vươn mình, không chỉ cần sự phát triển tự thân của văn hóa mà còn cần một nền tảng thể chế vững vàng, những chính sách đột phá và sự chung tay từ mọi thành phần xã hội. Từ đó, văn hóa Việt Nam không chỉ duy trì giá trị cốt lõi mà còn được tiếp thêm sức sống mới, sẵn sàng đón nhận những đổi thay và khẳng định vị thế quốc gia trong cộng đồng toàn cầu.
Từ khi đổi mới đất nước đến nay, vấn đề thể chế, chính sách văn hóa đã được nhận biết và hoàn chỉnh, sửa chữa qua việc ban hành nhiều văn bản pháp luật của Quốc hội, Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Tuy vậy, vấn đề thể chế trong văn hóa hiện vẫn là một trở ngại lớn với nhiều vấn đề cần khắc phục: trước hết là sự chồng chéo và mâu thuẫn trong nhiều văn bản luật ở cả Trung ương và địa phương của những bộ, ban, ngành khác về nguồn nhân lực, nguồn tài chính, đất đai, tài sản, nhà cửa, tổ chức... Do vậy, làm giảm hiệu lực và hiệu quả của những chính sách văn hóa mà ngành Văn hóa ban hành hay trình Quốc hội và Chính phủ ban hành.
Vấn đề thứ hai về thể chế văn hóa hiện nay là việc thực hiện những văn bản pháp luật về văn hóa chưa thật sự hiệu quả, một phần do tính chồng chéo đã nêu trên, một phần do nhận thức về vai trò của văn hóa trong xã hội chưa thật đúng và đủ, và một phần còn do năng lực của những cán bộ văn hóa chưa thật cao.
Vấn đề thứ ba nằm ở việc nhiều văn bản pháp luật về văn hóa vẫn thiên về hướng quản lý nhiều hơn là thúc đẩy sự phát triển của văn hóa vốn đòi hỏi một tư duy về văn hóa thoáng và cởi mở hơn. Tức là thể chế văn hóa được ban hành cần hạn chế việc Nhà nước can thiệp quá nhiều và quá sâu vào nhiều hoạt động văn hóa và cần chuyển từ tư duy quản lý, giám sát, kiểm tra của Nhà nước sang tư duy Nhà nước hỗ trợ và thúc đẩy văn hóa phát triển. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phải bắt đầu từ tư duy mở, sẵn sàng đón nhận những ý tưởng đổi mới, khuyến khích sự sáng tạo và bảo vệ quyền lợi của người làm văn hóa.
Để làm được điều này, các thể chế, chính sách văn hóa cần được xây dựng với tầm nhìn xa, không chỉ đáp ứng nhu cầu hiện tại mà còn phải tiên đoán được xu hướng tương lai, giúp văn hóa có thể linh hoạt thích nghi với những thay đổi của thời đại, góp phần tạo động lực phát triển hơn là duy trì tính ổn định và chưa đồng bộ như hiện nay.
Với quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam có cơ hội giao lưu và học hỏi từ nhiều nền văn hóa trên thế giới. Điều này tạo điều kiện cho sự đa dạng văn hóa, đồng thời giúp văn hóa Việt Nam tiếp cận với nhiều xu hướng, phong cách và công nghệ mới, làm phong phú thêm bản sắc dân tộc.
Cách mạng công nghiệp 4.0 với sự phát triển của Internet và công nghệ số mở ra cơ hội lớn để quảng bá và bảo tồn văn hóa. Thông qua các nền tảng kỹ thuật số, Việt Nam có thể dễ dàng đưa văn hóa của mình đến với bạn bè quốc tế, đồng thời giúp các thế hệ trẻ Việt Nam tiếp cận với văn hóa truyền thống một cách thuận tiện và sinh động.
T.H
Link nội dung: https://thethaovietnamplus.vn/tang-cuong-chuyen-doi-so-trong-linh-vuc-van-hoa-a40771.html