Ứng dụng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu chuyên ngành Thể dục thể thao

Dự Hội thảo “Định hướng phát triển cở sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình”, chiều nay (ngày 1/10) tại Hà Nội, Giám đốc Trung tâm Thông tin - Truyền thông Thể dục thể thao Lý Đức Thùy đã có bài tham luận quan trọng với chủ đề “Ứng dụng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu chuyên ngành Thể dục thể thao”.

Tham luận do Giám đốc Trung tâm Thông tin - Truyền thông Thể dục thể thao Lý Đức Thùy trình bày nêu rõ những vấn đề trong đánh giá công tác xây dựng hệ thống thông tin quản lý cơ sở dữ liệu chuyên ngành Thể dục thể thao; Những khó khăn, thuận lợi trong việc xây dụng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành; Đề xuất giải pháp nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu ngành Thể dục thể thao. Đặc biệt, tham luận cho biết, mục tiêu đến năm 2030 sẽ xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu vận động viên thể thao theo quy chuẩn thống nhất trong toàn ngành Thể dục thể thao theo hướng tích hợp cơ sở dữ liệu vận động viên với cơ sở dữ liệu dân cư Việt Nam; Tích hợp các hệ thống thông tin điều hành thi đấu thể thao, hệ thống thông tin quản lý điều hành tác nghiệp với hệ thống cơ sở dữ liệu vận động viên nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý. 

Thethaovietnamplus.vn xin giới thiệu toàn văn tham luận của ông Lý Đức Thùy - Giám đốc Trung tâm Thông tin - Truyền thông Thể dục thể thao - tại Hội thảo. 

thi-la-1727784334.webp
Ông Lý Đức Thùy - Giám đốc Trung tâm Thông tin - Truyền thông Thể dục thể thao - trình bày tham luận tại Hội thảo

Bối cảnh, tình hình xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành 

Quyết định số 27-QĐ/TW, ngày 10/8/2021 của Ban Bí thư về việc ban hành Chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan đảng giai đoạn 2021-2025 nêu rõ mục tiêu tổng quát: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc và cải cách hành chính trong Đảng; tăng cường kết nối, trao đổi thông tin, dữ liệu, phát triển, nâng cấp các hệ thống thông tin, phần mềm ứng dụng, hỗ trợ tích cực, hiệu quả cho công tác tham mưu, thông tin, phục vụ và công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tại các cơ quan Đảng, đồng thời, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin; đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan Đảng phù hợp với Chương trình chuyển đổi số quốc gia”. 

Tại Nghị quyết về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2021 và Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương (Nghị quyết số 75/NQ-CP ngày 14/7/2021), Chính phủ đã quyết nghị việc đẩy mạnh chuyển đổi số, trong đó, yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tranh thủ thời cơ để đẩy mạnh chuyển đổi số; Phát triển các loại hình thương mại, dịch vụ trực tuyến, tăng cường cung cấp dịch vụ công trực tuyến; Thực hiện mạnh mẽ chuyển đổi số trong quản lý Nhà nước. 

Chính phủ cũng đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2021-2030 (Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021). Trong đó, giao Bộ Thông tin truyền thông chủ trì triển khai nội dung phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Ngày 2/9/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg về việc đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2021-2030. 

Xu hướng ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong những năm gần đây chính vì vậy mà Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Thể dục thể thao cũng như Trung tâm Thông tin - Truyền thông Thể dục thể thao đã có những bước đi cụ thể nhằm bám sát lộ trình phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số của Đảng và Chính phủ. Đến nay Trung tâm Thông tin - Truyền thông TDTT đã có Trung tâm tích hợp dữ liệu đồng thời phát triển các ứng dụng phần mềm dùng chung như: Hệ thống thông tin quản lý, hệ thống thông tin tác nghiệp, hệ thống thư điện tử, phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu vận động viên; Phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu thành tích thi đấu… 

Đánh giá công tác xây dựng hệ thống thông tin trong quản lý cơ sở dữ liệu chuyên ngành Thể dục thể thao 

Cùng với việc triển khai Đề án, chương trình tin học hoá tổng thể các hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, cũng như hoạt động điều hành tác nghiệp của ngành Thể dục thể thao theo định hướng của Chính phủ, trong thời gian qua, ngành Thể dục thể thao đã ưu tiên đầu tư triển khai xây dựng, phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý huấn luyện, đào tạo vận động viên các đội tuyển. Hệ thống này bao gồm các thành phần cơ bản: Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành; Hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp thi đấu thể thao; Hệ thống thông tin quản lý đào tạo vận động viên; Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu hồ sơ vận động viên các đội tuyển. Ngoài ra, còn các hệ thống thông tin, các ứng dụng phục vụ công tác quản lý hành chính Nhà nước khác như: Hệ thống cơ sở dữ liệu về thể dục thể thao quần chúng, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về quản lý hồ sơ nhân sự, cơ sở dữ liệu về tài chính… 

Các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu trên được tích hợp tạo ra một hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chung phục vụ cho việc hỗ trợ công tác tổ chức, quản lý đào tạo và huấn luyện vận động viên các đội tuyển. Hệ thống này được xây dựng, triển khai trên phạm vi toàn quốc nhằm phục vụ cho công tác tra cứu, tổng hợp thống kê trên phạm vi rộng về tất cả các thông tin trong đó, gồm: cơ sở dữ liệu vận động viên trên toàn quốc, cơ sở dữ liệu thành tích thi đấu thể thao, cơ sở dữ liệu về phương pháp, chương trình, kế hoạch huấn luyện. 

Các hệ thống thông tin quản lý, điều hành tác nghiệp được xây dựng nhằm hỗ trợ cho quá trình tương tác giữa vận động viên, huấn luyện viên và nhà quản lý trong quá trình huấn luyện. Các hệ thống này có phạm vi diện rộng tại các đơn vị và cơ sở huấn luyện phục vụ trực tiếp cho quá trình huấn luyện và tổ chức huấn luyện. Ngoài ra, các thông tin, cơ sở dữ liệu trong quá trình đào tạo, huấn luyện vận động viên sẽ còn phục vụ cho công tác tuyển chọn vận động viên, quản lý huấn luyện theo từng giai đoạn, hỗ trợ kiểm tra, đánh giá kết quả… 

Các đối tượng như: huấn luyện viên, vận động viên, cán bộ quản lý có thể tổng hợp và xử lý các thông tin liên quan trong hệ thống dữ liệu này với nhiều mục đích: tìm hiểu về vận động viên, thành tích vận động viên, lập báo cáo, thống kê tổng hợp… từ đó, giúp các nhà quản lý có thể đưa ra quyết định một cách nhanh chóng và chính xác. 

Đánh giá thực trạng và khó khăn trong việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành Thể dục thể thao 

Xác định được tầm quan trọng của việc triển khai hệ thống các phần mềm ứng dụng và cơ sở dữ liệu trong hệ thống hệ thống thông tin chung của toàn ngành, được sự ủng hộ của lãnh đạo các cấp, Trung tâm Thông tin - Truyền thông Thể dục thể thao đã tiến hành xây dựng hệ thống Khung cơ sở dữ liệu của ngành, cho tới thời điểm hiện nay Khung cơ sở dữ liệu đã khẳng định được vai trò của mình và thực sự trở thành nền tảng cho toàn bộ hệ thống thông tin chung của ngành Thể dục thể thao. Với nền tảng là hệ thống Khung cơ sở dữ liệu đã được xây dựng từ tháng 1/2005, cho đến nay đã triển khai được một số hệ thống cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin quản lý và hệ thống thông tin tác nghiệp cơ bản phục vụ cho công tác quản lý hành chính Nhà nước của ngành bao gồm: 

Hệ thống thư tín điện tử công vụ nội bộ của ngành (email): với 990 hộp thư điện tử cho các cán bộ, công chức, viên chức. 

Hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp thi đấu thể thao: Áp dụng cho các sự kiện thể thao lớn của ngành (Đại hội Thể thao cấp châu lục, khu vực, các Đại hội Thể thao toàn quốc, các giải thi đấu thể thao…). 

Hệ thống cơ sở dữ liệu hồ sơ vận động viên, huấn luyện viên đội tuyển các môn thể thao trên phạm vi toàn quốc (http://vdv.tdtt.egov.vn): Số lượng trên 7.250 hồ sơ. 

Hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp chuyên môn nghiệp vụ: triển khai trên mạng nội bộ của ngành; Hệ thống cơ sở dữ liệu thành tích thi đấu thể thao (http://hrm.tdtt.egov.vn): Cung cấp kết quả thi đấu của trên 840 giải thi đấu thể thao. 

Hệ thống thông tin quản lý huấn luyện vận động viên các đội tuyển (http://cpms.tdtt.egov.vn): Áp dụng cho các Trung tâm Huấn luyện Thể thao quốc gia.

Hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ quản lý Nhà nước (Luật, Điều lệ, Tài chính…).

Hệ thống cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật: cung cấp trên 60.000 văn bản pháp luật về các lĩnh vực quản lý nhà Nước có liên quan (http://dataframe.tdtt.gov.vn). 

Trang tin điện tử (Website) của ngành và một số module cơ sở dữ liệu chuyên ngành: Triển khai trên mạng Internet, có tích hợp lịch công tác tuần và các modul cơ sở dữ liệu dữ liệu chuyên ngành (như: cơ sở dữ liệu văn bản pháp quy; cơ sở dữ liệu lịch thi đấu các môn thể thao; cơ sở dữ liệu danh bạ điện thoại…) (https://tdtt.gov.vn). 

Thuận lợi: Việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hiện nay được Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng như lãnh đạo Cục Thể dục thể thao quan tâm đầu tư và chỉ đạo quyết liệt. 

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật được Nhà nước đầu tư phát triển, nâng cấp bổ sung sau 2 kỳ Đại hội (Đại hội Thể thao châu Á trong nhà lần thứ III - 2009; Đại hội Thể thao Bãi biển châu Á lần thứ V - 2016), vì thế, Trung tâm Tích hợp dữ liệu, hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin của ngành hiện nay đảm bảo hoạt động tốt, phục vụ cho các dịch vụ công trực tuyến, các hoạt động quản lý Nhà nước của Ngành. 

Nhận thức về vai trò của công nghệ thông tin đến công tác quản lý, điều hành, đặc biệt là công tác quản lý đào tạo, huấn luyện vận động viên của các cán bộ, công chức, viên chức, huấn luyện viên ngày càng được nâng cao. 

Khó khăn: Năng lực, trình độ, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của ngành hiện nay còn nhiều hạn chế. 

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật sau một thời gian dài được khai thác, sử dụng hầu hết các thiết bị đã xuống cấp và hư hỏng nhiều. Bên cạnh đó, các thiết bị hầu hết đã hết hạn bảo hành và bản quyền phần mềm do đó tiềm ẩn các nguy cơ các sự cố và mất an toàn, an ninh thông tin. 

Các Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành được đầu tư xây dựng, tuy nhiên, do đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của ngành do ngại thay đổi cách thức, thói quen về công tác quản lý, điều hành, cho nên các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chưa được triển khai áp dụng một cách triệt để, dẫn đến chưa đem lại hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành, tác nghiệp. 

Cơ chế, hành lang pháp lý cho việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nói chung và quản lý dữ liệu vận động viên nói riêng chưa được quan tâm xây dựng và hoàn thiện, dẫn đến khó khăn trong công tác xây dựng và vận hành các hệ thống. 

quang-canh-hoi-thao-phien-chieu-1727771918.jpg
Các đại biểu dự Hội thảo

Đánh giá việc sử dụng, khai thác hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành Thể dục thể thao 

Hiện nay, ngành Thể dục thể thao đang quản lý một lượng hồ sơ giấy tờ lớn gây khó khăn trong công tác bảo quản, lưu trữ cũng như khai thác. Để thuận tiện cho công tác quản lý, tất cả những hồ sơ này cần được số hoá một cách hệ thống, đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật theo Thông tư số 02/2019/TT-BNV do Bộ Nội vụ ban hành. 

Việc xây dựng quy trình số hoá và thực hiện số hóa tài liệu trong hoạt động thể dục thể thao; chuyển đổi thông tin số hóa thành các cơ sở dữ liệu, kho dữ liệu phục vụ tra cứu và tham khảo sử dụng. 

Quy trình số hóa tài liệu được ứng dụng nền tảng giải pháp số hoá tài liệu thông minh theo tiêu chuẩn an ninh thông tin ISO/IEC 27001:2013, đồng thời xây dựng kho tư liệu số (tài liệu đã được số hoá dưới nhiều hình thức khác nhau: dữ liệu, văn bản, hình ảnh, audio, video…) về các hoạt động thống kê. 

Việc ứng dụng các công nghệ hiện đại để xây dựng thư viện số thực hiện đáp ứng các yêu cầu quản lý các tài liệu số hóa sau khi được tạo lập có thể truy cập, tìm kiếm và sử dụng dễ dàng trên một giao diện đồng nhất; có đủ độ tin cậy cho người quản trị để bảo quản và cung cấp dữ liệu; đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về chuẩn nghiệp vụ thông tin - thư viện; dễ dàng trao đổi dữ liệu với các chuẩn khác, có công cụ sao lưu; bảo đảm an ninh an toàn dữ liệu. 

Việc khai thác hệ thống cơ sở dữ liệu hiện có (gồm cả văn bản quy phạm pháp luật, vận động viên, thành tích thi đấu) còn hạn chế, thậm chí không mang lại hiệu quả do vừa thừa lại vừa thiếu, không có tính thống kê, phân loại qua từng năm. Hệ thống cơ sở dữ liệu thành tích thi đấu và vận động viên tạm coi là có số lượng nhiều nhất, nhưng lại không được chuẩn hóa và cập nhật đầy đủ (do nhiều nguyên nhân) nên gần như không thể khai thác. 

Các hệ thống cơ sở dữ liệu khác (trên Website thể thao cho mọi người) thì chưa được đầu tư xây dựng một cách đúng mức. Hầu hết các dữ liệu này đều phân tán và chưa được quy hoạch. 

Về cơ bản hệ thống cơ sở dữ liệu của Trung tâm Thông tin - Truyền thông Thể dục thể thao hiện có mới chỉ dừng ở mức độ thu thập, cập nhật một cách bị động mà chưa có định hướng phát triển rõ ràng, chưa có kế hoạch hay lộ trình cụ thể 80 cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu dẫn đến hiệu quả công tác sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu còn rất hạn chế. 

hoi-thao-1727784560.webp
Quang cảnh Hội thảo

Đề xuất các chỉ tiêu, mục tiêu, giải pháp, nhiệm vụ trong giai đoạn tiếp theo 

Mục tiêu đến năm 2030, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý Nhà nước nói chung và quản lý vận động viên nói riêng. 

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu vận động viên thể thao theo quy chuẩn thống nhất trong toàn ngành Thể dục thể thao theo hướng tích hợp cơ sở dữ liệu vận động viên với cơ sở dữ liệu dân cư Việt Nam. 

Kết nối các hệ thống thông tin quản lý, điều hành, tác nghiệp trong các lĩnh vực Thể dục thể thao; Đặc biệt tích hợp các hệ thống thông tin điều hành thi đấu thể thao, hệ thống thông tin quản lý điều hành tác nghiệp với hệ thống cơ sở dữ liệu vận động viên nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý. 

Hoàn chỉnh hệ thống thông tin quản lý và hệ thống thông tin tác nghiệp của ngành. Nâng cấp, tích hợp các hệ thống này với khung cơ sở dữ liệu của ngành và các phần mềm ứng dụng hiện có, trên cơ sở đó khai thác một cách hiệu quả các ứng dụng công nghệ thông tin. 

Xây dựng ngân hàng dữ liệu trung tâm phục vụ cho việc tích hợp và quản lý các dữ liệu quản lý Nhà nước và chuyên ngành. Việc điều chỉnh xây dựng mới các cơ sở dữ liệu thành phần phải tuân thủ chặt chẽ các quy định, tiêu chuẩn về cấu trúc mô hình của Chính phủ và Khung cơ sở dữ liệu ngành đã được xây dựng. 

Xây dựng Hệ thống chỉ tiêu chất lượng ứng dụng công nghệ thông tin của ngành Thể dục thể thao, tạo cơ sở và tiền đề để triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành một cách thống nhất, đồng bộ. 

Các giải pháp, nhiệm vụ trong giai đoạn tiếp theo 

Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành tác nghiệp. Tăng cường nguồn lực đầu tư tài chính và chính sách tài chính cho ứng dụng công nghệ thông tin. Hoàn thiện cơ chế chính sách tạo hành lang pháp lý cho ứng dụng công nghệ thông tin. 

Tăng cường đầu tư trang thiết bị cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin; Đảm bảo duy trì hoạt động của các hệ thống công nghệ thông tin hiện nay của ngành. 

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng công nghệ thông tin cho viên chức, cán bộ. Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin với các đơn vị trong và ngoài nước. 

Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong mọi lĩnh vực của ngành Thể dục thể thao.

thethaovietnamplus.vn

Link nội dung: https://thethaovietnamplus.vn/ung-dung-he-thong-thong-tin-va-co-so-du-lieu-chuyen-nganh-the-duc-the-thao-a38313.html